Về đời tư: Tôi là Liên Thành xuất thân trong một gia đình Hoàng Tộc, thuộc huyết
thống chính thống của Đức Đông Cung Anh Duệ Hoàng Thái Tử Đại Nguyên Soái
Nguyễn Phúc Cảnh, con trưởng của Hoàng Đế Gia Long. Ông Nội tôi là Kỳ Ngoại Hầu
Cường Để, một nhà cách mạng Việt Nam, ông là cháu đích tôn đời thứ 5 của Hoàng
Đế Gia Long. Bà nội tôi là cháu ngoại của Vua Thiệu Trị và là em ruột của Đệ I
Tăng Thống Phật Giáo Việt Nam, Ngài Đại Lão Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết. Như
Vậy trong liên hệ gia đình tôi gọi Ngài Hòa Thượng Đệ I Tăng Thống là Ôn. Ngoài
ra người Bác của tôi là Ông Tráng Đinh, người đã từng cùng với bác sĩ Lê Đình
Thám lập ra Hội Phật Học Trung Việt từ 1944 và tôi biết rõ rằng chính Ông Trí
Quang là một trong những học viên đầu tiên của Hội Phật Giáo Việt Nam tại Trung
Việt. Ngoài ra gia đình tôi có anh Liên Phú hiện là Đại Lão Hòa Thượng đang trù
trì một ngôi chùa tại Vùng Đơn Dương ở gần thị xã Đà Lạt. Sở dĩ tôi phải đưa lý
dịch dài giòng liên hệ của tôi đối với Phật Giáo để chứng minh rằng những lời
tôi sắp thưa cùng hòa thượng là những lời lẽ hoàn toàn không có ý tưởng nào gọi
là đánh phá Phật Giáo mà chỉ với mục địch nói lên sự thật đã bị cộng sản Việt
Nam cũng như một đám Ma Tăng, ác tăng và dâm tăng nằm vùng trong Phật Giáo bóp
méo và mưu toan tẩy xóa lịch sử mà thôi.
Lời tựa: Trân trọng đăng tải bức thư, bài viết của thiếu tá Nguyễn Phúc Liên Thành, cựu chỉ huy trưởng cảnh sát quốc gia VNCH tỉnh Thừa Thiên-Huế, gửi Thích Tâm Châu: một kẻ tráo trở lật ngược lịch sử.Theo nguồn: UBTTTA ĐCSVN
Orange County, California
Ngày 13 tháng 7 năm 2013
Thưa Hòa Thượng Thích
Tâm Châu,
Trước khi đi vào câu
chuyện chính mà tôi muốn thưa với Hòa thượng, tôi xin tự giới thiệu cá nhân tôi
về đời tư cũng như đời công để Hòa Thượng rõ về đối tượng đang thưa chuyện với
Hòa thượng:
Về đời công: Tôi là lính tình nguyện, xuất thân từ trường sĩ quan Bộ Binh Thủ Đức
khóa 16. Tôi chẳng liên hệ gì đến nền Đệ I Cộng Hòa vì khóa 16 chúng tôi ra
trường khi mà cuộc phản loạn của đám loạn tướng đã xong. Nhưng trước ngày 8
tháng 5 năm 1963 Phật Đản tôi có mặt tại Huế và đã chứng kiến một số sự việc
cho đến ngày tình nguyện đi lính.
Từ 6/6/1966 đến đầu 1969
tôi là thiếu úy Phó trưởng ty Cảnh Sát Đặc Biệt tại Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc
Gia Tỉnh Thừa Thiên và thị xã Huế. Từ 1969 đến gần cuối 1974 tôi là Chỉ huy
Trưởng BCH/CSQG/TT -Huế. Nói như vậy để hòa thượng thấy rằng tôi là một nhân
chứng sống trong một thời đại nhiễu nhương của đất nước từ 1963-1975.
Thưa Hòa Thượng,
Từ bao nhiêu năm nay cho
đến trước cuối tháng 6/2013 Hòa thượng nói chuyện tại chùa Bảo Quang Nam Cali,
và trước ngày 4/7/2013 Ký giả Đoàn Trọng phỏng vấn Hòa Thượng trên đài truyền
hình channel 57.7 thì cá nhân tôi vẫn một lòng tôn kính Hòa thượng. Nhất là khi
Hòa thượng ra cuốn Bạch Thư tố cáo Ác Tăng Thích Trí Quang và Phật Giáo thuộc
nhóm Ấn Quang là cộng sản, mặc dầu trước đó trong thời gian cuộc nổi loạn 1963
Hòa Thượng cũng đã sát cánh với Thích Trí Quang và nhóm cộng sản Ấn Quang như
Hòa thượng đã tuyên bố trong cuốn Bạch Thư ngày 31/12/1993 tại hải ngoại.
Trích dẫn: – „Viện
Hóa Đạo Ấn Quang cử các vị ra nước ngoài liên lạc với các nhóm phản chiến, yêu
cầu Mỹ rút quân, phản đối chính sách chống Cộng của VNCH, đòi hòa bình. Viện
Hóa Đạo Ấn Quang cử Thượng Tọa Nhất Hạnh làm Trưởng Phái Đoàn Hòa Bình bên cạnh
Hòa Đàm Paris“.
Trích dẫn: – „Thực
sự, cuộc tranh đấu từ tháng 6-1966, cho đến nay chia đôi Giáo Hội, đều
do bàn tay CS đạo diễn, làm hại cho Phật Giáo và quốc gia VN không nhỏ. Vì
vậy, Phật Giáo không phải là không có trách nhiệm, liên đới đến sự để mất VNCH
cho CS“.
Vấn đề này, chính Hòa Thượng Thích Huyền Quang cũng thường nhắc đi nhắc
lại: “CS từng tuyên bố: “Phật Giáo Ấn Quang hai lần có công với Cách
Mạng”. (Ngưng trích "Bạch Thư Thích Tâm Châu").
Nhưng nay, sau khi nghe Hòa thượng tuyên bố nguyên nhân của vụ tranh đấu Phật
Giáo vào năm 1963 và vụ ông Lâm văn Tức/Thích Quảng Đức „tự thiêu“, thì tôi xin
thưa cùng Hòa Thượng cảm nghĩ của tôi đối với Hòa Thượng như sau:
Tôi hoàn toàn thất vọng
và khinh bỉ tư cách của Hòa thượng, một kẻ tuổi đời đã 93 tuổi mà có thể ăn nói
hồ hồ, vu khống, trở trái làm mặt một cách không ngượng ngùng, và không biết
xấu hổ là gì. Trong buổi nói chuyện tại chùa Phổ Quang và buổi phỏng vấn của ký
giả Đoàn Trọng trên đài truyền hình FreeVN 57.7 ngày 4/7/2013 Hòa thượng đã nói
một số vấn đề tôi xin nêu ra dưới đây để mọi người cùng thấy sự láo lường và tư
cách hèn hạ của Hòa Thượng:
1)- Hòa thượng nói rằng: "Vô tình hay là cố ý đã có một cái thông điệp là
cấm treo cờ Phật giáo trong mùa Phật Đản."
Xin hỏi Hòa thượng đã
đọc được văn thư của Tổng Thống hay Chính Phủ Đệ I Cộng Hòa cấm treo cờ Phật
giáo ở đâu, khi nào, ai đưa cho Hòa thượng đọc. Hòa thượng có dám thề trước
tượng Phật là có văn thư nầy và chính Hòa thượng đã đọc được hay không?
Lịch sử đã chứng minh và Ủy ban Điều tra của Liên Hiệp Quốc cũng đã chứng minh
rằng không có vấn đề kỳ thị tôn giáo, có nghĩa rằng hoàn toàn không có văn thư
nào của Tổng Thống hoặc của chính phủ cấm treo cờ Phật Giáo mà chỉ có văn thư
nhắc lại thể thức treo cờ tôn giáo phải nhỏ hơn cờ quốc gia mà thôi.
2)- Hòa thượng nói: "mục đích chính của cuộc tranh đấu 1963 là
vì cầu cho được "Bình đẳng Tôn giáo" mà thôi.
Xin thưa cùng Hòa thượng rằng, những gì mà cộng sản và nhóm Phật Giáo Tranh
Đấu 1963 vẫn thường sự dụng Dụ số 10 để gán ghép cho chính phủ Đệ I
Cộng Hòa tội bất bình đẳng với Phật giáo. Cũng vì Dụ số 10 này mà ông Thích
Quảng Độ vào năm 2011 đã phạm vào tội vọng ngữ thậm xưng không thể tha thứ khi
phát biểu rằng: "Dưới thời ngoại thuộc, Phật giáo đã hoàn tất công
cuộc Chấn hưng khởi từ những năm 20 thế kỷ trước, bằng cuộc Xuống Đường không
tiền khoáng hậu năm 1963, thế kỷ XX, để chấm dứt thời kỳ ngoại thuộc biến một
tôn giáo dân tộc thành hội đoàn tư hữu, biến đạo lý truyền thống thành ý lực
ngoại bang" (Nguồn - http://youtu.be/R0x0UObzojA hay http://www.queme.net/vie/docs_detail.php?numb=1713).
Có lẽ các ông chỉ biết "tranh đấu" mà không đọc nên chẳng biết nội
dung của Đạo Dụ nói gì và Đạo Dụ nầy có từ bao giờ, do ai, và mục đích của Đạo
Dụ nầy là gì. Xin thưa:
Dụ số 10 là của Vua Bảo
Đại ban hành vào ngày 6/8/1950. Ông Bộ Trưởng bộ Nội Vụ của chính phủ Đệ I Việt
Nam Cộng Hòa Bùi văn Lương đã giải thích như sau: Theo Hiến Pháp VNCH, sự
tu chính luật phải do Quốc Hội đưa ra. Tóm lại việc tu chính một Dụ
phải có hai điều kiện:
1- Xét thấy rằng có nhu
cầu phải tu chính. 2- Phải có nhu cầu xuất phát từ dân chúng. Trong cả hai
nhiệm kỳ quốc hội mà đa số đều là Phật Tử đều không đưa ra yêu cầu tu chính Dụ
số 10, thế thì tại sao nhóm Phật Giáo Tranh Đấu lại đổ tội cho Tổng Thống Ngô
Đình Diệm? Đổ tội cho Tổng Thống một việc mà hiến pháp quy định không thuộc
quyền hạn và trách nhiệm của Tổng Thống, như vậy những kẻ đã đổ tội có mưu đồ
gì, nhất là khi những kẻ đó lại khoác trên mình cái áo của Phật? Trong trường
hợp này, rõ ràng Phật là vũ khí để nhóm „Phật giáo Tranh Đấu“ đã dùng
để đẻ ra tội cho bất cứ ai mà đám này muốn triệt hạ.
- Xét về điểm số 1: Cho đến khi có vụ Phật giáo giáo xẩy ra, đã
không có nhu cầu tu chính Dụ số 10. Mặc dầu văn kiện kiểm soát các hội rất chặt
chẽ và gắt gao, nhưng chính phủ VNCH không hề áp dụng những điều kiện đó, mà
ngược lại lại rất rộng rãi cho tất cả các tôn giáo, đặc biệt là Phật giáo. Có
một điều khoản trong Dụ, ví dụ như điều kiện buộc phải đăng ký với Bộ Nội Vụ
tên những thành viên của chùa, Ủy ban, hay Hội Phật Giáo, mà điều này ai cũng
thấy là rất cần thiết để đối phó với cộng sản, thì chính phủ đều bỏ qua, đặc
biệt ở các tỉnh. Theo ông Bộ Trưởng Nội Vụ Bùi văn Lương thì trước 1960 và sau
1960 chính phủ đều không thi hành Dụ số 10 đối với Phật giáo, ngay chính ông ta
cũng không kiểm tra. Mãi đến năm 1963 khi xảy ra vụ Phật giáo thì ông Bộ Trưởng
Bùi văn Lương mới mở hồ sơ ra xem xét, mới thấy rằng đã từ lâu, 1954 đến 1963
chính phủ đã không hề áp dụng Dụ Số 10.
- Xét về điểm
số 2: Chính Phủ không hề và chưa bao giờ có yêu cầu, thư tín gì từ phía dân
chúng đòi hỏi tu chính Dụ số 10. Từ ngày 16/6/1963, sau khi thỏa hiệp với phái
đoàn Phật Giáo, đích thân chính phủ đã đưa vấn đề Dụ số 10 ra Quốc Hội và đã cử
một ủy ban đặc biệt để nghiên cứu tu chính Du số 10. Trong khi đó chính phủ
cũng đã chính thức tuyên bố ngưng áp dụng Dụ số 10, cho dù chính phủ đã không
hề áp dụng từ lâu.
Trong ngày 26/10/1955
Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm công bố Hiến Ước tạm thời có câu:
“Luật lệ hiện hành vẫn tạm giữ nguyên”, Dụ số 10 nằm trong số các luật lệ hiện
hành nên đương nhiên là tạm giữ. Sau đảo chánh, ngày 4/11/1963, Trung Tướng
Dương Văn Minh, Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, khi tuyên bố Hiến Chương
tạm thời số 1 cũng có câu “Các luật lệ hiện hành vẫn tạm duy trì”. Như vậy,
ngay cả với chính quyền Dương Văn Minh thì Dụ số 10 vẫn không hề bị hủy bỏ.
Chính phủ của Trung Tướng Nguyễn Khánh, và sau nầy là chính phủ Đệ II
Cộng Hòa vẫn tham chiếu Dụ số 10 để làm những Nghị Định hay Sắc Luật để phê
chuẩn bản Hiến Chương Phật giáo sau nầy. Ngay cả cho đến ngày 30/4/1975, Dụ số
10 vẫn không hề bị hủy bỏ.
Như đã biết thủ tục pháp
lý để hủy bỏ một Dụ không phải là dễ, và không thuộc quyền hạn và trách nhiệm
của hành pháp. Thích Trí Quang đổ tội cho Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình
Diệm kỳ thị Phật giáo qua vấn đề Dụ số 10 là hoàn toàn cả vú để lấp miệng em,
tuyên truyền lường gạt tín đồ nhẹ dạ không hiểu biết gì về luật pháp và hiến
pháp quốc gia.
3)- Hòa Thượng nói rằng: „Chùa Từ Đàm và các ngôi chùa tại Huế bị phong tỏa, bị cúp điện, nước, và
không cho tiếp tế thực phẩm“.
Thưa Hòa thượng, sự thật
không phải như vậy, có lẽ Hòa thượng không có mặt ở Huế nên ông chẳng biết mô
tê là gì. Nhà tôi ở sát cạnh chùa Từ Đàm và tôi đã chứng kiến hàng giờ hằng
ngày cho đến khi lên đường đi lính. Sự việc là chỉ có một mình chùa Từ Đàm bị
phong tỏa để không cho tín đồ Phật tử tập trung đông đảo tại chùa, chứ điện
nước không bị cúp, các thầy và các điệu vẫn vô ra chùa không bị lực lượng an
ninh cấm đoán, các điệu các thầy muốn ăn gì, mua gì thì có ai cấm đoán đâu.
4)- „Thích Quảng Đức tự thiêu“:
Theo Hòa thượng phát
biểu thì chính Hòa thượng là người chấp thuận „đơn xin tự thiêu“ của Thích
Quảng Đức, cũng chính Hòa thượng là người đầu tiên hướng dẫn đoàn biểu tình và
cũng là người đầu tiên hướng dẫn cuộc tự thiêu của ông Quảng Đức với lý do là
để „cứu nguy cho Phật giáo“ tại Huế. Thú thật với Hòa thượng tôi vừa nghe câu
nói nầy từ miệng Hòa thượng nói ra tôi bỗng thấy buồn nôn và ói mửa. Thú thật
khi đó tôi nhìn mặt Hòa Thượng trên mặt kênh truyền hình mà tưởng như đang nhìn
mặt của tên ác quỷ, mặt của một tên sát nhân chứ không phải là mặt của Đại lão
Hòa Thượng Thích Tâm Châu. Hành động chấp thuận và tổ chức cho đồng loại tự
thiêu là hành động đáng ghê tởm và là hành động của tên sát nhân, chứ không
phải là hành động của kẻ chân tu, Hòa thượng có biết không?
Ông Quảng Đức bị thiêu
sống chỉ phục vụ cho mưu đồ của Cộng Sản Bắc Việt và chính phủ Mỹ. Bởi vì hơn
ai hết Hòa thượng là trưởng phái đoàn Liên Tôn đã hội họp với phái đoàn Liên Bộ
của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa về 5 nguyện vọng của phái đoàn Liên Tôn. Hai
bên đã giải quyết xong, ổn thỏa trong tinh thân xây dựng, thượng tôn luật pháp.
Và chính Hòa thượng cũng đã hai lần được diện kiến Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa
Ngô Đình Diệm, và cũng chính Hòa thượng đã nói Hòa thượng rất kính nể Tổng
Thống. Mọi việc rắc rối hai phái đoàn đã giải quyết xong thì tại sao phải nướng
sống Quảng Đức. Câu trả lời rất dễ hiểu là nếu mọi việc đã giàn xếp xong, tình
hình chính trị yên ổn thì lấy lý cớ gì để cho Việt Cộng và Chính phủ Hoa Kỳ lật
đổ Tổng Thống Diệm được. Nướng sống Thích Quảng Đức để phát động hận thù tạo
bất ổn chính trị đó là lý cớ duy nhất và Quảng Đức chỉ là cục thịt nướng trong
bữa tiệc hả hê của Cộng Sản Bắc Việt, của Chính phủ Hoa Kỳ, của Ác Tăng Việt
Cộng Thích Trí Quang, và cuối cùng là của kẻ sát nhân Đại Lão Hòa Thượng Thích
Tâm Châu mà thôi.
Năm mươi năm sau
1963-2013 cộng sản xây tượng phong „Liệt Sĩ“ cho Thích Quảng Đức thì tại Hải
Ngoại đám cộng sản nằm vùng trong Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, đám cộng sản
và việt gian phối hợp với Phật giáo quốc doanh dưới sự chứng kiến của tên Cộng
sản gộc Lê Mạnh Thát tổ chức thật rùm beng „Lễ Tưởng Niệm Đồng Chí Liệt Sĩ
Thích Quảng Đức“, vì Bác vì Đảng, tự nướng trong đó có sự ca ngợi của Đại Lão
Hòa Thượng Thích Tâm Châu.
Câu cuối cùng tôi xin
được hỏi Hòa thượng là: Ngày xưa 1963 Hòa thượng đã từng hăng say phối hợp với
Ác Tăng Việt cộng Thích Trí Quang đạp đổ Đệ I VNCH sát hại Tổng Thống Ngô Đình
Diệm, sau đó có phải vì địa vị, tiền bạc thế lực danh vọng giữa Hòa thượng và
tên ác tăng Việt Cộng Thích Trí Quang thanh toán nhau. Trí Quang đã dọa thanh
toán Hòa thượng ít nhất hai lần bằng "một đĩa máu, một con dao, và
một huyết thư" đặt ngay trong Việt Nam Quốc Tự và trong chùa Từ
Quang (trích Bạch Thư, Thích Tâm Châu, tr. 28). Hòa thượng phải chạy trốn cuộc
truy sát của ác tăng Việt Cộng Thích Trí Quang mà chạy bám theo Tướng Nguyễn
Ngọc Loan và Nguyễn Cao Kỳ để được che chở và để được thành lập khối Việt Nam
Quốc Tự đối kháng lại khối Ấn Quang của các Tăng Việt Cộng Thích Trí Quang, chứ
thật ra ngài về với Đệ II VNCH chỉ vì cầu xin Đệ II VNCH sự che chở, đùm bọc
mạng sống mà thôi, chứ chẳng phải vì quốc gia đạo pháp gì phải không Hòa
thượng?
Đức Phật đã nói: „Ba
điều không thể che giấu đó là: Mặt trăng, mặt trời và sự thật“. Hòa thượng là
kẻ tu hành sao không nghe lời dạy của Đức Phật?
Đối với Liên Thành nầy,
Hòa thượng không còn là Đại lão Hòa Thượng Thích Tâm Châu của Bạch Thư năm 1993
nữa, cá nhân tôi, và những người Việt tỵ nạn cộng sản, những Phật tử chân
chính, chúng tôi đã quá thật vọng về Hòa thượng.
Tôi Liên Thành hoàn toàn
chịu trách nhiệm về bài viết nầy và rất mong được công khai nói chuyện cùng Hòa
thượng trước sự chứng kiến của mọi giới về vấn đề ông Thích Quảng Đức bị thiêu
hay tự thiêu cũng như vấn đề Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Đệ I VNCH có đàn áp
Phật Giáo hay không?
Trân trọng chào Hòa
Thượng.
Liên Thành
P.O. Box 6147. Fullerton, CA 92834. Cell Phone: 626-257-1057.
Email:ubtttadcsvn.vg@gmail.com. Huemauthan1968@gmail.com
http://ubtttadcsvn.blogspot.com/2013/07/thu-cua-cuu-chi-huy-truong-canh-sat.html