Noi gương tiền nhân dựng cờ đại nghĩa(2)

Noi Gương Tiền Nhân, Dựng Cờ Đại Nghĩa(2)
Theo Bắc Bình Vương, Tiến Đánh Thăng Long
Vân Anh

Sống thỏa thuê tôi trở về đất Tổ
Vào Lam Sơn tìm gặp vua Lê
………………………………….. 
Theo Bắc Bình Vương gióng trống mở cờ
        Tiến đánh Thăng Long núi Nùng sông Nhị
                                                (Tôi Muốn Sống - 1962)

          Kể từ thời Tây Hán trải dài cho đến ngày nay, các giới vua, chúa cầm quyền ở Trung Hoa qua bất cứ thời đại nào nói chung. Họ đã có một sách lược rất rõ ràng với các sắc dân chung quanh, mà họ gọi là bọn “man di”. Sách lược của Trung Hoa đã xác định rõ rệt là: “phải có nhiều phương cách thôn tính và đồng hóa các quốc gia lân bang” nói chung. Giới cầm quyền Trung Hoa với những suy tư, suy nghĩ sai lệch như trên đã khiến các quốc gia lân bang Trung Hoa phải có những kế sách khả dĩ đương đầu với các cuộc xâm lăng của họ về nhiều mặt như: văn hóa, chính trị, kinh tế, tình báo, thương mại ..v.v..
          Song song với kế sách đó là chống lại sự bần cùng diệt vong dân tộc Việt gây ra bởi tập đoàn Việt Gian Cộng sản điên rồ, mù quáng. Quá khứ cũng như hiện tại chúng đã mượn danh nghĩa tổ quốc, dân tộc, nhân dân để thỏa mãn tham vọng cho riêng gia đình chúng. Chúng mượn oai linh của tổ quốc để mưu cầu bả danh lợi cho đảng phái, cá nhân, cho giòng họ chúng. Chúng gian manh khéo léo đầu cơ lòng yêu nước của đại đa số tầng lớp thanh niên Việt đầy nhiệt huyết. Bọn chóp bu cầm quyền Việt Gian Cộng sản, chúng chỉ là một lũ vong bản. Toàn dân Việt ngày nay ai ai cũng hiểu rằng: muốn thắng bọn Cộng sản gian manh này để đất nước không bị lệ thuộc Bắc phương, toàn dân Việt chúng ta phải đồng loạt công kích bọn chúng ở tất cả mọi lãnh vực.

          Đọc lại lịch sử Việt xưa chúng ta thấy Tiền Nhân của chúng ta lúc nào cũng nghĩ đến sự yêu thương, công bình, sinh thú, áng nhiên. Tiền nhân chúng ta đã đem tình yêu không riêng cho con cháu họ, mà còn cho những người chung quanh và luôn sống với tấm lòng “Nhân” chân thật. Theo sách vở của tổ tiên chúng ta để lại có dạy thế nào là: “Nhân”.
          Vân Anh xin phép được mở dấu ngoặc ở đây để nói sơ về chữ Nhân là Người (vì người mới có lòng Nhân), là lòng nhân trong dòng sống Việt hay còn gọi là “chữ Nhân trong đạo Việt”. Sách xưa có dạy: “năng hành ngũ giả ư thiên hạ vi nhân hỹ”; nghĩa là: phàm làm được năm điều ở trong thiên hạ đó là Nhân vậy. Năm điều đó là gì! Cung, Khoan, Tín, Mẫn, Huệ. Cung thì không khinh nhờn; Khoan thì được lòng người; Tín thì người ta tin cậy mình được; Mẫn thì có công; Huệ thì đủ khiến được người. Như vậy cứ theo ý nghĩa của các câu trên, thì Nhân là nói đến sự hành động phải hợp với Thiên Lý, làm việc công thì phải bỏ hết cái tư tâm, tư ý ra ngoài. Làm cho người cũng như làm cho mình, và lúc nào cũng kính cẩn, thân ái như một.

          Nhưng định nghĩa chữ Nhân ở trên thì cũng chỉ hiểu cái “Thể”. Trong cái thể yên lặng ấy; tựa “núi” lại có đức tính thầm lặng nhưng sáng suốt, mạnh mẽ qua sự “điều hòa” của “núi”. Như vậy thì Nhân với Trung (điều hòa) cũng cùng một nghĩa, vì với muôn loài sinh ra sống bám vào đất “núi”, thì không bao giờ là không có hậu tình. Hiểu “thể” tất phải biết “Dụng”, cái “dụng” của “Nhân”; tức là đức lớn “bồi dưỡng sự sinh” (ái). Nhân còn có định nghĩa khác lớn và rộng hơn thế nửa. Nên sách có câu rất gọn và cũng rất rộng để tả về Nhân là: “Trí giả động, nhân giả tĩnh”; (trí thì động; nhân thì tĩnh). Như vậy theo nghĩa của các câu trên thì Nhân lại là cái thể Tĩnh như “Núi”. Yên lặng và cao lớn như Núi, vì bao nhiêu đức tính khác cũng từ đó mà sinh ra, khác nào từ các “Cây” cổ thụ to lớn cho đến các loài cỏ mềm đều mọc cả trên núi. “Hỡi núi cao lồng lộng!. Chót vót song chon von và không lớn rộng”.

          Vậy chữ Nhân cũng hàm nghĩa cái ý của chữ “Ái”. Vì có Nhân mới có Ái (nên gọi là nhân ái), có ái mới có lòng yêu người, thương vạn vật (*), muốn vạn vật bao giờ cũng được sống ở đời, để môi trường duy nhiên đươc thăng bằng. Vậy có Lòng Nhân mới có Bác Ái, có bác ái thì người ta mới hợp quần, mới xem cả đoàn thể như một người. Như vậy nghĩa rộng của Nhân; “Nhất Thể là Vũ Trụ”.
          Nếu Nhất Thể là Vũ Trụ, thì mọi người sống trong một xã hội (xã hội loài người) ví như thân thể của một cá nhân, khi thân thể người đó bị đau thì toàn thân cảm thấy khó chịu, đó là ý nghĩa trong sự “toàn thân liên đới”. Người có bệnh mà không thể cảm giác là mình bị bệnh nơi đâu, nên trong Đông y thầy thuốc gọi đó là bệnh Tê Liệt. Bệnh Tê Liệt còn được gọi là bệnh “Ma Mộc Bất Nhân”. Vì sao gọi là “Ma Mộc Bất Nhân”. Vì người khi mang chứng bệnh này, thì bệnh nhân đau nơi nào họ cũng không thể tự biết, chỉ biết toàn thân bị tê liệt.
          Như vậy những người Bất Nhân ở trong xã hội cũng như người đang mang bệnh Ma Mộc Bất Nhân họ không thể tự biết, vì toàn thân họ bị tê liệt. Nên mặc ai bị dằn vặt đau khổ thế nào!. mặc ai bị bóc lột tận xương đau đớn làm sao!, mặc ai cơ hàn rên xiết! mặc ai bi thảm khóc than!, thì loại người đang mang bệnh Tê Liệt nói trên họ cũng dửng dưng không hề cảm động. Vì Ma Mộc Bất Nhân nên toàn thân họ từ tâm hồn đến thể xác của họ đều vô cảm.
          Vậy lòng yêu người; thương vật, thì tấm lòng yêu thương đó đều xuất phát từ tự nhiên của Nhân, nhân đó được gọi là An, mà An là đức tính tốt của người có lòng Nhân. Người có lòng Nhân thì trong họ tự nhiên đã có trực giác tỏa sáng, vì trong sáng nên họ làm việc bao giờ cũng thành đạt. Người Bất Nhân thì Vị tư tâm, tư trí, trực giác mờ mờ, tối tối nên họ chuyên làm những điều tàn ác trái với thiên lý. Nên không lúc nào những kẻ Bất Nhân, Tàn Ác mà sống được an lành và không bao giờ những người này họ có được hạnh phút trong tâm hồn, cho dù họ có tiền muôn bạc tỷ!.

  Tóm lại Nhân gồm cả Thể và DụngThể thì cô tịch, lặng im nhưng vẫn có sẳn cái năng lực sinh ra các đức tính tốt. Nói cách khác tựa như cái Hạt bên trong Quả. Bởi khi có hạt thì sẽ nẩy mầm rồi sẽ mọc ra cành ra lá. Vì vậy người ta gọi cái phần ở trong Hạt ấy là Nhân, nhân sinh quả nên gọi là Nhân Quả. Dụng là phần dễ cảm ứng thông suốt đến người và vạn vật. Vì Dụng như vậy nên lúc nào cũng thích hợp với thiên lý. Nói một cách rõ ràng hơn là: kẻ Nhân thì từ tâm hồn lẫn thể xác đều đầy những tình cảm chân thực, nên kẻ đã Nhân thì bao giờ cũng hiếu đễ và trung thứ. Trái lại những kẻ Bất Nhân thì đầy những trí thuật, mưu lợi, khôn khéo, gian ngoa nên tình cảm thì luôn luôn đơn bạc và không chân thực. Vì bản chất đã đơn bạc và giả dối nên con người sinh ra gian ác, tàn nhẫn, thất trung, bất nhân, quỉ quyệt cũng là lẽ tất nhiên.
          Nhân lại là cái gốc lớn trong trời đất, vạn vật nhờ đó mà sinh, quốc gia nhờ đó mà tồn tại, lễ nghĩa nhờ đó mà phát sinh thêm. Nhân cũng là tôn chỉ của tôn giáo, chính trị, học thuật, hành vi của cá nhân mà hợp với Nhân Đạo là phải, trái với Nhân Đạo là trái. Cái đạo học của Nhân to lớn như vậy, sâu xa như vậy. Cho nên người quân tử Đông phương suốt đời lo tu dưỡng chữ Nhân, nên họ làm việc điều hòa, bình hành, thích hợp lưu hành với tự nhiên vậy!.
          Lịch sử Đạo Việt xưa đã vậy!. Lịch sử của thời cận đại ngày nay thì sao?!. Chắc hẳn chúng ta đều nhìn thấy những sự thù hận, tham lam, bất công, ganh tị được giấu đằng sau những mỹ từ “bình đẳng”, “đạo nghĩa”. Họ nhân danh “đạo nghĩa”, “bình đẳng” như một thứ quyền năng để mưu đồ tư lợi cho tập đoàn, cho đảng phái hay cho riêng chủng tộc của họ. “Bình đẳng”; “bình đẳng”. Trong xã hội dân chủ phải có tiền mới bình đẳng.


          Trong hơn 100 năm qua (nói về thời cận đại) các đế quốc da vàng cũng như da trắng đều nghĩ cách khống chế tư tưởng và nô lệ hóa con người dưới nhiều chiêu bài, hình thức khác nhau. Nhưng mục đích lường gạt để bóc lột người thì cũng chẳng có gì khác xưa cho lắm. Hơn 100 năm qua (nếu tính từ năm Tân Hợi -1911. Tại sao Vân Anh phải lấy thời điểm năm Tân Hợi?!), Âu và Á họ cũng chỉ nuôi sống một đám Gian Thương Chính Trị Trên Thế Giới (lập lại là: “đám gian thương chính trị trên thế giới”. Đọc giả nào còn nghi ngờ cụm từ “gian thương chính trị”, thì xin tìm đọc và so sánh “kiến thiết giai đoạn luận” của Tôn Văn có “giống nhau” với “cách mạng giai đoạn luận” của Lenin hay không?!.), để thủ lợi trên xương máu của các dân tộc nhỏ đáng thương. Họ dùng bọn“gian thương chính trị” (từ của Vân Anh) để làm nhiễu loạn chính sự của thế giới để thủ lợi, cho nên nền chính trị của họ không lấy nhân nghĩa để làm gốc mà lấy tư lợi để mưu cầu chính trị. Vì họ quan niệm; “chính trị là quyền lợi” nên họ làm việc cho dân, cho nước cũng vì tư lợi, thương cha kính mẹ cũng vì tư lợi, đạo nghĩa vợ chồng cũng vì tư lợi. Tóm lại những kẻ đã cầm quyền nếu làm được điều nhân thì trị dân được lâu dài, làm điều tàn ác thì ngược lại. Người cầm quyền là đất nước đã giao phó cho mình những việc trọng đại có quan hệ đến vận mệnh của đất nước. Nếu không được trời đất; qủy thần giao phó cho mình công việc trị dân, thì đó cũng chỉ là thế lực cường bạo của những kẻ đạo tặc.
          Tóm lại thì tình nghĩa cha con, anh em, vợ chồng, bè bạn, người thân đều vì tư lợi, nên khi quyền lợi bị va chạm thì họ sẽ sẳn sàng giết nhau cũng vì tư lợi. Tư lợi bất chính đã gây ra biết bao nhiêu tội ác, tai họa, đau thương thống khổ đầy máu và nước mắt cho con người khắp nơi, trong suốt chiều dài lịch sử từ Đông sang Tây, từ Âu sang Á và ngày nay tội ác họ đang gieo rắc đó vẫn chưa chịu dừng lại (cứ nhìn dân của các quốc gia Trung Đông và Á Châu ngày nay như: Trung Hoa, Việt Nam, Bắc Hàn, Lào, Cao Miên, Miến Điện ..v.v.. thì rõ nhất). Người dân hiền lành ở các quốc gia này họ vẫn là con người đáng thương và cần được cứu giúp!.
          Tập đoàn Cộng sản Việt Nam hiện nay chỉ là một tập đoàn “lưu manh chính trị”, vì không có việc gì bất nhân, tàn ác mà chúng không dám làm, chúng đã tự đưa đưa chúng vào ngõ bí. Từ năm 1945 sau khi chiếm trọn miền Bắc và năm 1975 chiếm trọn miền Nam cho đến nay; chúng đã dùng máu và nước mắt để trấn áp người dân Việt một cách bạo tàn không bút mực nào có thể tả xiết. Chúng đã xem quốc gia như là một công cụ của “đảng” để chúng mặc cả, thì tất nhiên tập đoàn gian thương của chúng sẽ sụp đổ, bị tiêu diệt mà không có cách nào để cứu vãn được nửa. Muốn cứu lấy quốc gia thì bắt buộc phải đập vỡ các cơ cấu “lưu manh chính trị” ấy đi, thì mới mong rằng có thể (có thể thôi) chỉnh đốn được phần nào quốc gia Việt Nam.
          Thông thường khi một bộ phận nào đó của quốc gia bị hỏng, thì những người điều hành có thể phá bỏ bộ phận đó để chỉnh đốn guồng máy quốc gia. Nhưng khi cơ cấu đã hỏng thì xã hội đó đương nhiên phải băng hoại, quốc gia đó phải chịu cảnh diệt vong không thể khác. Khi bọn gian thương chính trị và bọn lưu manh chính trị ngồi lên trên luật để điều hành quốc gia, thì trước hay sau gì dân tộc Việt cũng phải chịu cảnh tiêu vong. Hiện nay cho dù tập đoàn Việt Gian Cộng sản có dùng tiền bạc và nhiều thứ khác để mua thời gian, thì rồi cuối cùng chúng cũng phải chết. Vì theo quy luật từ xưa cho đến nay, thì không một quốc gia nào tồn tại được lâu; khi cơ cấu chính trị của quốc gia đó đã hỏng.
          Ngày nay tội ác xấu xa đó đã được phơi bày, sách vở và tài liệu đã được bạch hóa rất nhiều trên các hệ thống chuyển tin toàn cầu (Internet), thiết nghĩ con người của thời đại ngày hôm nay nên tỉnh ngộ mà vứt bỏ những cái xấu xa, tham lam, hư hèn của thời quá khứ. Các dân tộc đã bị đè nén nên mạnh dạn đứng dậy để xây dựng cho chính mình một tương lai tươi đẹp hơn. Chúng ta nên hiểu rằng chỉ có chúng ta mới cứu được đất nước chúng ta ra khỏi vũng lầy hôi tanh này, chỉ có chúng ta mới thương yêu anh em chúng ta. Quá khứ đã cho thấy không phải vì lòng tốt, mà các “siêu cường” đã nhân danh các “hiệp ước, liên minh” để bảo vệ chúng ta. Lời nói “yêu thương” cũng chỉ là chiêu bài để lừa bịp chúng ta. Những mỹ từ “tự do, bình đẳng”, “đạo nghĩa, luân thường” chỉ là trò đùa của giới tài phiệt Đông cũng như Tây lắm quyền nhiều lực, mà người quốc gia Việt chân chính đã bị họ lừa phỉnh. Thân phận của hàng chục triệu người Việt; Nam cũng như Bắc rẻ mạc như những món hàng đã được rao bán trong buổi chờ về chiều. Nếu chúng ta không đùm bọc chia sẻ và yêu thương lẫn nhau trong thế giới đang hỗn man này và nếu chúng ta cứ mãi tham lam, thù ghét, ti tiện nói chung, thì dân tộc và đất nước chúng ta chắc chắn sẽ bị diệt vong.
          Đất nước Việt Nam, nhìn lại quá khứ; tiền nhân Việt đã cho bọn ngoại xâm và nội thù (Việt Gian Cộng sản và bọn xâm lăng Trung Cộng) những bài học để thể hiện tinh thần Vạn Thắng một cách oai hùng lẫm liệt!. Các thủ đoạn để thực hiện bá quyền của Sô Vanh Bắc phương tóm lại tựu chung ở các điểm sau đây:
a) Dùng những điều gọi là “hiệp ước” để chiếm đoạt.
b) Xâm lược nhưng ẩn nấp dưới những điều khoản “kinh tế”.
c) Ngụy trang và ngụy tạo để thực hiện hành động xăm lăng.
d) Khai thác mâu thuẫn giữa người Việt để dễ bề trục lợi.
đ) Đe dọa và khủng bố các thành phần yêu nước ngấm ngầm chống bọn xâm lăng phương Bắc.
          Và khi đã xác định được sách lược thôn tính rồi, thì họ chuẩn bị những bước kế tiếp dưới đây để chấm dứt kế sách xâm lăng cũng như đồng hóa người Việt bằng một cuộc chiến tranh “kinh tế, văn hóa, quân sự” vô cùng tàn bạo.
                                                                                                  
1) Phá Hoại Kinh Tế Đối Phương Trước Khi Xảy Ra Chiến Tranh:
          Phá hoại kinh tế nghĩa là bần cùng hóa chính sách đối phương (Việt Nam). Hiện nay ta thấy Trung Cộng đang làm đối với Việt Nam và các quốc gia lân bang như Lào, Miên, Miến Điện, Thái Lan, Phi Luật Tân, Đại Hàn cũng là điều dĩ nhiên. Mặc dù bên ngoài chúng vẫn cho các tên cò mồi trấn an dư luận bằng những bài “diễn văn”, các các bài viết trên các mặt báo chí của chúng. Nhưng bên trong chúng vẫn âm thầm thực hiện các mưu mô thâm độc để đồng hóa các sắc dân nhỏ chung quanh.
          Phá hoại kinh tế cũng có nghĩa là: tiêu diệt chiến chí là tiêu mòn trí thức đối phương. Hủ hoá chính sách cũng như ngu hóa chính sách đối phương. Như vậy nếu nhìn cho kỹ thì chính các nước như: Mỹ, Nga, Âu Châu, Nhật, Ấn ..v.v.. cũng đang bị Trung Cộng tấn công; lấn chiếm bằng nhiều mặt và xâm lăng bằng nhiều hình thức khác nhau, mà các nước này “dường như” họ không có một kế sách hữu hiệu nào có thể khả dĩ đối phó hay chận đứng với các kế sách thâm độc của Trung Cộng hiện nay.
          Vấn nạn này trong các bài viết của Vân Anh cũng đã có viết ra để cảnh cáo cũng như cảnh báo từ lâu. Và như Vân Anh đã có nói: “nếu Trung Cộng chiếm được Á và Úc Châu thì xem như Mỹ và Âu Châu vĩnh viễn không thể lật ngược thế cờ để phòng thủ, nhưng khi đã không thể phòng thủ thì làm sao có đủ tiềm lực về nhiều mặt để tấn công đối phương?!. Hóa giải bước tiến của Trung Cộng không thể đơn giản chỉ viết ra trong một bài viết ngắn này. Vì đa số không thấy được các thủ đoạn của Trung Cộng đã và đang thực hiện mộng xâm lăng thế giới tinh vi đến mức nào (theo Vân Anh hiện nay - 2012 - nếu muốn lấy Á và Úc Châu thì quá dễ dàng để thực hiện ý đồ này). Sau hơn 1,000 năm đất nước Việt bị xâm lăng; xâm thực, nhưng người Việt chúng ta vẫn còn cơ hội để sống và vươn lên. Nếu đặt giả thuyết khi bất ngờ Trung Cộng tấn công và chiếm đóng Âu Châu, thì thành viên các quốc gia Âu Châu hiện nay sẽ làm gì để tự vệ?!. Câu trả lời này xin dành cho chính họ để họ tự suy nghiệm lấy.
          Và một lần nữa Vân Anh muốn xác nhận là các chiến lược gia người Trung Hoa đang ngồi trong bóng tối điều hành toàn cõi Hoa Lục và đạo quân thứ 5 của họ ở hải ngoại ngày nay, họ giỏi hơn Khổng Minh ngày xưa rất nhiều. Một số trí thức Á châu (kể cả người Mỹ gốc Tàu) khi nghiên cứu chính trị đương thời, họ nghĩ rằng Hoa Lục hiện đang bị khủng hoảng về lãnh đạo và “dường như” Hoa Lục không có lãnh đạo tài giỏi!. Đây là một nhận xét vô cùng sai lạc, nếu không muốn nói là phương Tây và Mỹ có lẽ đã “trúng kế” giới Hoa Kiều ở Washington DC thì phải. Và như Vân Anh đã có nói: “người Trung Quốc thì đi đâu họ cũng hãnh diện là người Trung Quốc, họ làm việc cho mẫu quốc của họ thì cũng là điều phải thôi” (chứ không lẽ họ lại làm việc cho Mỹ hay phương Tây!). Vận mạng của những quốc gia như: Mỹ, Nhật, Ấn, Đức, Anh ..v.v.. không thể ủy thác vào một vài bài “phân tích” của những người Mỹ gốc Trung Hoa đang làm việc ở trong các lãnh vực chính trị và văn hóa của Mỹ cũng như phương Tây. Trong ngành phản gián thiết nghĩ “nhân dân tình báo sở” của Hoa Lục họ cũng là bậc “sư phụ” trong giới “võ lâm” xưa cũng như nay.
          Xin nêu ra một ví dụ nhỏ là:
1) Từ năm 1949 cho đến nay, đã có hàng vạn cuộc nổi dậy của người dân Trung Hoa nhưng đều bị dập tắt trong âm thầm. Trong khi đó Li Băng, hay Ai Cập hiện nay chẳng hạn, chỉ có vài cuộc biểu tình đã làm thay đổi hẳn tình hình chính trị của các nước này, mặc dù phương Tây hết sức ủng hộ các thể chế độc tài này. Ai Cập vừa qua đã bầu cử như thế nào chắc mọi người đều biết. Hơn 25 năm trước Vân Anh đã được đọc bộ “Quốc Sách Thảo Án Toàn Pho”, bộ sách được viết ra từ năm 1942. Tác giả đã cho biết “Thanh Gươm Lập Công” là cuộc cách mạng võ lực của người Hồi Giáo ở thời điểm từ năm 2000 trở đi, họ sẽ “Lập Công” cho thế giới này noi theo (người Hồi Giáo lấy thanh gươm làm biểu tượng sức mạnh ý chí của họ) và các cuộc cách mạng của toàn dân Trung Đông ngày nay. Tác giả của bộ sách trên cũng cho biết thêm cuộc cách mạng nào sẽ nở hoa trên quê hương Việt Nam và cuộc cách mạng phục hưng; phục hoạt xã hội Việt đã bắt đầu từ năm 2010. Chúng ta nên bình tĩnh chờ một thời gian ngắn nửa xem sao!).

          Ví dụ ở trên chứng tỏ các bàn tay chỉ đạo ở Hoa Lục họ phải giỏi. Hoa Kiều ở Washington DC, họ đã làm mưa làm gió ở đất Hoa Kỳ trong nhiều thập niên qua mà ít có người biết cũng như có thể chận đứng được họ. Ngày nay mọi người đều nhìn thấy Quốc Hội Mỹ cũng là một nơi lạm quyền và đầy tham nhũng (vậy người Trung Hoa có lãnh đạo giỏi không?!). Tập đoàn Cộng sản Việt Nam thì từ năm 1942 cho đến ngày nay là năm 2012, lại do Mỹ và Trung Cộng giúp đỡ chúng trong nhiều thập niên qua, cho nên đến nay chúng vẫn chưa sụp đổ là vậy!.
          Những tài liệu gần đây được bạch hóa cho chúng ta thấy chuyện người Mỹ gốc Anh và tập đoàn tư bản Mỹ gốc Do Thái trong vấn đề chiến tranh Việt Nam, những thỏa thuận để ngầm bán Việt Nam cho Cộng sản Tàu đã từ từ được công chúng Hoa Kỳ biết đến. Ngày nay tập đoàn Việt Gian Cộng sản đã hết đường tuyên truyền một cách lừa bịp rằng chúng “chống Mỹ và thắng Mỹ”. Hàng nghìn trang tài liệu và hình ảnh từ các bộ ngân khố của Nga, Mỹ, Pháp, Anh, Trung Cộng đã cho chúng ta thấy tập đoàn Cộng sản Việt Nam chúng chuyên làm tay sai cho bất cứ thế lực ngoại bang nào, miễn chúng được ngồi trên quyền lực và bóc lột người dân Việt thế thôi.

          Người Việt Nam nói chung, từ bây giờ và sau này phải học những bài học kinh nghiệm xương máu hôm nay, để ngày mai những thế hệ Việt Nam kế tiếp và cho con cháu chúng ta các thế hệ sau này có một cái nhìn đứng đắn hơn về thế giới phương Tây khi có dịp bước chân vào chính trường để lèo lái con thuyền quốc gia đi đến nơi bình an. Nhất định đừng bao giờ trông ngóng và người để tìm sự giúp đỡ. Chúng ta phải Tự Chủ và Tự Cường. Ngoại nhân “giúp đỡ” chúng ta chỉ khi nào họ thấy sự giúp đỡ đó đem lại lợi nhuận cho họ. Chính trị của các xã hội phương Tây là Lợi Nhuận, đơn giản chỉ có vậy!.
          Một người trí thức của Trung Hoa đã “tâm sự” với Vân Anh rằng: “chúng tôi cũng có thừa trí khôn để hiểu là hơn 100 năm qua, “chính quyền” các nước Tây phương đã lợi dụng và bóc lột xương máu người dân Trung Hoa nói riêng và các sắc dân Á Châu nói chung một cách không thương tiếc. Những người lãnh đạo (trong bóng tối) mới lên cầm quyền ở Hoa Lục hiện nay, họ đã không còn liên hệ (connections) với Mỹ và phương Tây nhiều như các thế hệ tiền nhiệm trước đây”. Bạn đọc nào đang quan tâm về thời cuộc và tình hình đất nước Việt Nam, xin bình tâm bỏ thời gian để suy tư, suy nghĩ những điều Vân Anh vừa trình bày ở trên, để cùng nhau tìm ra Phương Thuốc Cứu Nước; dù là Thuốc Nổ!.
1.a) Đánh Cắp Khoa Học Kỹ Thuật:
          Các quốc gia khác cũng bị các trường hợp Trung Cộng phá hoại kinh tế của họ tương tự như Việt Nam hiện nay là:
a) Trung Cộng có kế sách làm hàng giả. (giả nghĩa là ăn cắp bản quyền, nhưng sản phẩm chế ra thì không giả)
b) Tình báo Trung Cộng xác nhận đã và đang điều động các tổ chức của người Tàu đánh cắp các loại khoa học, kỹ thuật trên thế giới.
c) Trung Cộng bán phá giá ra thị trường đủ loại các mặt hàng để đánh phá kinh tế đối phương.  
d) Trung Cộng có chiến dịch di dân nghèo khổ, tội phạm trên đất Hoa Lục sang các quốc gia khác để tạo ra các xáo trộn và gây cảnh hỗn loạn xã hội của các nước lân bang.
đ) Trung Cộng mua và “xuất cảng” gái các nước Á Châu sang các quốc gia Tây phương và Mỹ để phục vụ trong các hệ thống mãi dâm, trồng và bán cần sa, ma túy. Trong khi đó thì họ mua (hoặc dụ dỗ rồi bắt cóc) các cô gái Âu Châu da trắng về để phục vụ cho các tầng lớp có quyền và có tiền ở Hoa Lục.
          Và còn nhiều kế sách khác mà nhóm cầm quyền Trung Cộng đang thi hành một cách vô cùng thâm độc với các quốc gia Á Châu mà người viết chưa tiện nêu ra ở đây. Nhưng các “bạn” Âu Châu nên nhớ rằng: nếu Trung Cộng vào được nước bạn, thì trong vòng 6 tháng đàn bà, con gái trong nước của bạn mất đi một nửa, trong vòng 1 năm thì đàn ông của nước bạn mất đi 90%, trong vòng 5 năm thì đất nước của bạn sẽ bị xóa sổ. Và đây là sự thật có dẫn chứng chứ không là lời tiên đoán vô căn cứ. Các điều viết ra ở trên đây chúng ta phải lấy kinh nghiệm lịch sử nhà Minh khi họ xâm lăng nước Việt để làm điển hình cho giai đoạn này trở đi của đất nước chúng ta, cũng như của cả thế giới. (xin tìm đọc bài trước và đoạn dưới chỉ nói sơ sơ về nhà Minh khi xâm lăng Việt Nam vào đầu năm 1407, thì sẽ rõ.)

2) Xâm lăng bằng võ lực:
          Khi xâm lăng bằng võ lực và trước khi Trung Cộng giao chiến với đối phương, thì họ tìm cách hủy diệt kinh tế đối phương; làm tàn phá mùa màng gây rối loại thương trường. Họ “viễn giao cận công”; là cấu kết với các quốc gia chung quanh đối phương để dễ bề tấn công về nhiều mặt quân sự, tình báo, kinh tế ..v.v.. cùng một lúc, họ tìm cách khuấy động về tranh chấp lãnh thổ để tiêu diệt người bản xứ và dùng dân bản xứ để gây hỗn loạn và tấn công người bản địa. Các tổng hành dinh của các “Bang; Hội”, cũng như các địa điểm “truyền đạo” của người Tàu trên lãnh thổ đối phương, sẽ là những trạm “giao liên” hoạt động hữu hiệu về nhiều mặt.
2.a) Sau Khi Xâm Lăng:
          Dùng thủ đoạn cực kỳ tàn ác sau khi đã xâm chiếm được lãnh thổ của đối phương, chúng dùng sách lược tàn nhẫn chia dân ra từng khu vực để cai trị, số người không thể đồng hóa hay cãi hóa được thì phải giết sạch để tránh gây loạn về sau này. (điều này Cộng sản Hà Nội đã từng áp dụng sau khi họ chiếm trọn miền Nam từ năm 1975. Người ta ước lượng có khoảng 1,000,000 - 1 triệu - Nhân Dân Tự Vệ và Xây Dựng Nông Thôn miền Nam bị tập đoàn Việt Gian Cộng sản thanh toán sau năm 1975 - chỉ riêng 2 lực lượng này thôi con số bị giết cũng đã lên đến 1 triệu người - . Ngày nay Vân Anh ít khi được đọc các bài viết nói về 2 lực lượng ưu tú nhưng vô danh này. Các giáo phái, các chính đảng, các lực lượng chiêu hồi của Cộng sản, các thương phế binh của cả hai miền Nam, Bắc. Những thành phần này sau năm 1975 họ đã đi đâu?. Hỏi tức trả lời vậy!.)



          Khi nhà Minh đã chiếm Việt Nam vào đầu năm 1407, chúng thành lập một hệ thống cai trị gọi là: “Tam Đầu Chế”, chúng tập trung mọi quyền hành dưới một đầu quân sự gọi là “đô chỉ huy sứ”. Án sát và Bố chính sứ coi về Tư pháp và Dân sự. Chế độ quân sự tập quyền của nhà Minh là đem tất cả nhân lực, tài lực, vật lực của người Việt Nam, gom lại như một “ma trận” và bị chúng kiểm soát cực kỳ nghiêm mật.
          Người nông dân Việt bị khống chế và kiểm soát dưới các “Hương Lẫm”, nơi này họ tập trung lại hết mọi lúa gạo, ngũ cốc. Theo tài liệu thì mỗi năm người nông dân Việt phải nộp cho bọn Minh triều là 13 triệu 80 vạn hộc lúa (mỗi hộc là 60 lít). Voi, bò, ngựa khoảng 140 nghìn con (140,000 con). Thuyền chuyên chở khoảng 8,700 chiếc (thuyền bao lớn thì không thấy nói đến kích thước. Nhưng dĩ nhiên phải lớn mới chuyên chở được) ..v.v..
          Người công nhân bị khống chế dưới các “Tạp Tạo Cục”, nơi này chúng thu gom hết Sức và Phẩm (nhân lực và tài lực) lao động cho quan nha sử dụng. Các Lý, Giáp, Phường, Tương đều có các địa đồ ghi rõ nội dung các nơi đó. Các phủ huyện, bộ Hộ và các ty Bố chính nắm giữ hết tất cả sổ Biên, sổ Đinh, sổ Điền ..v.v.. Họ còn đặt các quan người Tàu bắt dân phu đi khai thác các mỏ vàng, bạc cũng như đá qúy (ngọc, cẩm thạch chẳng hạn). Quan “Bản Cục” và “Nội Quan” được cử lập hội đồng xem xét đúng phẩm lượng rồi chuyển các vàng, bạc, đá qúy này về Tàu để chúng sử dụng.
          Các nhà thương buôn bị khống chế dưới các “Thương Vụ Cục”. Ở các thương vụ cục này thuế má chiếm hết các “lãi lời” và như vậy thì quyền “mậu dịch” của người dân Việt đã bị bóc lột sạch nhẵn. Những người Việt làm việc dưới các cấp như Lý trưởng, Giáp thủ thường bị quan quân nhà Minh đánh đập tàn nhẫn. Những vùng duyên hải chúng cho lập các cơ sở “Kiểm Hạt Trai”, mỗi ngày hàng chục nghìn thanh niên phải lặn xuống biển để bắt ngọc trai.
          Giới tu sĩ Việt bị khống chế dưới các “Tăng Khu, Tăng Kỷ và Tăng Cương”. Mọi tôn giáo đều bị khống chế dưới “Đạo Khu, Đạo Kỷ và Đạo Cương”. Nhà Minh họ cho nhập cảng các sách “Tứ Thư”, Ngũ Kinh, Tinh Lý” và các “Tăng Đạo Ty” là nơi truyền bá ra dân chúng về “Đạo Phật” (Đại Thừa) theo kiểu Tàu. “Đạo Phật theo kiểu Tàu” là đạo Phật không chính thống, vì đạo Phật (đại thừa) của Trung Hoa pha trộn với Lão Giáo cộng với sự mê tín bùa chú theo phong tục tập quán của giống dân du mục, nên từ trước cho đến nay có thể nói rằng: có đến 70% hay 80% cái gọi là “đạo Phật” của Trung Hoa đã hiểu biết sai lạc trầm trọng về Phật Giáo.

          Đạo Phật như đã nói ở trên theo gót chân xâm lăng của quân Minh “truyền bá” sang Việt Nam và từ đó cho đến nay thử hỏi qua bao trăm năm đã có bao nhiêu ông sư “xây chùa cho to, đúc tượng Phật cho cao” để bắt bá tánh cung phụng cho mình, hơn là tu học theo con đường đức Thế Tôn đã dạy cho chúng sinh. “Tịch, Diệt” là tinh túy của đạo Phật. Vậy xin các bạn chỉ cho rằng: trong nước Việt Nam đau khổ; nghèo đói hiện nay có ông “sư” nào mà không lo xây chùa to, đúc tượng (Phật) thật cao để thụ hưởng. Phật tử chúng ta nên nhớ một điều là: các kinh sách của đạo Phật từ thời Lý, Trần đã bị tịch thu và đốt sạch khi quân Minh xâm lăng Việt Nam. Các biểu tượng liên hệ đến Phật giáo như chùa, miếu, lăng tẩm trong hai thời kỳ Phật giáo Việt hưng thịnh nói trên đã bị phá bỏ, để thay vào các đạo của nhà Minh (nói trên). Vậy thì ngày nay “phái này” hay “phái kia” cũng chỉ là sản phẩm của nhà Minh truyền sang khi chúng vào xâm lăng đất Việt cách đây hơn 600 năm. Hiện nay “chân sư” nào hay ngôi chùa nào còn giữ được nguyên thủy cũng như tinh túy chính thống của đạo Phật nguyên thủy!.
          Nhiều triều đại vua, chúa Trung Hoa đã hiểu sai lạc về Phật giáo như vậy, thì thử hỏi ngày nay ở Việt Nam đã có bao nhiêu ông “sư đại thừa” có chùa to, hiện đang “thuyết giảng” về đạo Phật một cách sai lạc. (Vì từ năm 1950 đến năm 1975 và từ năm 75 cho đến nay Trung Cộng đã hoàn toàn làm chủ nước Việt Nam. Đầu năm 1980 Hà Nội đã cho một số cán bộ trung kiên của chúng cạo đầu sang Tây Tạng và Ấn Độ “tu học” để làm “tăng sĩ” chuẩn bị cho việc biến các đảng viên trở thành các “tăng sĩ phật giáo”. Đây là một kế sách khác nửa mà bọn Cộng sản Việt- Hoa đã dự tính dùng “đạo Cộng sản” để lừa bịp người ngoại quốc, khống chế người Việt tị nạn khắp nơi trên thế giới. Nếu người Anh, Mỹ, Pháp, Ý ..v.v.. biết dùng tôn giáo như một lợi khí để làm ... tình báo và gián điệp từ rất lâu, thì tại sao Cộng sản Tàu và Việt lại không biết dùng đạo “Đại Thừa”; Cộng sản” của Tàu để làm gián điệp?!, chùa Tây Lai Tự ở miền Nam California, Hoa Kỳ là một điển hình rõ nhất.
          Đa số “chùa” của người Việt và Tàu ở khắp nơi trên thế giới hiện nay đang bị Cộng sản giật giây và điều động, chúng nấp dưới danh nghĩa các “Hội Đạo”, đi quyên góp tiền bạc đem về trong nước để xây “chùa” cho “đạo Cộng sản của chúng. Nhưng các thành phần này nên nhớ rằng: khi cơm Cộng sản, hamburger Mỹ và canh Trung Cộng đã không còn ngọt nửa, thì các tổ chức của “đảng ta” ở hải ngoại, nhất là ở đất Mỹ sẽ không thể tồn tại cho dù một ngày. Chiêu bài dùng “đạo” như là một lợi khí để buộc đối phương phải nhỏ máu - tiền là máu của quốc gia - mà chết, đã không còn hợp thời và linh nghiệm nửa trong đầu thế kỷ 21 này.
          Từ năm 1980 cho đến nay cứ mỗi năm Hà Nội lại “đẻ ra” từ 400 cho đến 500 “đại đức” và “thiền sư”. Đó cũng là lý do để giải thích tại sao hiện nay ở Việt Nam một đất nước nghèo khổ mà người ta lại thấy “chùa” chiền mọc lên như nấm gặp mưa. Mới có 25, 27 tuổi đầu chúng đã ngoa ngôn tự xưng là “đại đức”, là “sư”, là “thầy” thì thật là cao ngạo xem Trời bằng vung. Chúng ta luôn nhớ rằng: Đạo Phật là một đạo của khoa học, nên phải dùng lý trí để hiểu đúng; sai. Những gì chưa biết hoặc nghi ngờ thì trong thời đại điện tử, điện toán ngày nay chúng ta có thể dễ dàng kiểm chứng qua hệ thống thông tin “Internet”, không nên nhẹ dạ cả tin những kẻ cao ngạo, tham lam nói trên.
          Ngoài chuyện “dậy” và hiểu về đạo Phật một cách sai lạc, nhà Minh còn “truyền dậy” “Đạo Nho” (chúng ta nên lưu ý đạo Nho Tàu khác với đạo Nho Việt), “Đạo Lão”. Một điều chúng ta cần lưu ý nửa là các “tăng lữ và tăng đồ cũng như đạo gia” của nhà Minh là những thành phần hiểu cả “âm dương”; “phương y” (nôm na ngày nay gọi là thuật chiêm tinh và trấn yểm phong thủy). Và họ cũng là những người điều khiển luôn cả việc giáo dục cho dân Việt.
          Giới trí thức Việt đều bị kiểm soát dưới quyền của “Ty Bố Chính và Án Sát”, cả hai ty này đều nằm dưới tay của Thượng Thư Hoàng Phúc, bọn này chuyên đi tìm kiếm những người có Văn Học Uyên Bác, những Danh Y, những Nhân Tài Ẩn Danh, những người Hiếu Để. Họ hạn chế tối đa năng lực kinh tế và thủy chuẩn văn hóa của người Việt, kiểm tra và kiểm soát hoàn toàn đời sống của người dân Việt. Nhưng cuối cùng thì cũng chỉ có một số người vong bản, đam mê bả danh lợi như: Phan Liêu tri phủ Nghệ An đã chạy theo bọn xâm lăng thống trị, còn những người có liêm sĩ hiểu thời, biết thế thì họ vẫn tìm cách lẫn trốn hoặc bất hợp tác với bọn ngoại xâm và bọn nội thù.
(Phan Liêu con của Thái Phó nhà Hậu Trần là Phan Qúy Hữu (có tài liệu chép là Phan Quí Hựu). Hữu ra hàng quân Minh được mấy hôm thì bị đánh độc chết. Trương Phụ liền phong cho Liêu chức Tri phủ Nghệ An, vì muốn lập công to với Trương Phụ, nên Liêu tố cáo thực lực các địa điểm quân sự của Trần Qúy Khoách, nhờ đó mà Trương Phụ đánh chiếm Hóa Châu dễ dàng. Cuối cùng Trần Quý Khoách và thủ túc đều bị bắt, trên đường giải về Yên Kinh; Quý Khoách, Nguyễn Súy, Nguyễn Cảnh Dị, Đặng Dung đều nhảy xuống bể tự tử).
          Muối (thức ăn quan trọng) bị kiểm soát rất chặc chẻ dưới “Diêm Thuế Cục”. Muối làm được bao nhiêu thì cuối tháng phải giao nộp hết cho “Ty Đề Chưởng”. Những người nào muốn buôn bán thì phải thông qua “Ty Bạc Chính” (thương chính), khi nào họ khám xét xong mới được đem bán. Làm và bán muối lậu thì sẽ bị xử tội hành hình (bị giết).
          Nghệ thuật văn hóa phẩm cũng như các cổ vật quý hiếm của người Việt đều bị lấy đem về Tàu. Những gì không thể lấy đi được (như tượng núi Vọng Phu ở Đồng Đăng chẳng hạn), thì (hiện nay họ đã) đập phá để huỷ đi. Chúng hạn chế và giảm bớt thủy chuẩn của người Việt bằng cách xử dụng lao dịch người Việt vào các công việc nguy hiểm và khó nhọc như: buộc người Việt mỗi nhà phải nuôi một đứa nhỏ con người Tàu (những đứa bé người Tàu từ bên Tàu đưa sang Việt Nam là con cái của các tên tù tội khổ sai của người Tàu)(ngoài ra còn cả triệu quân phu của chúng sẳn sàng đồng hóa người dân Việt). Điều tệ hại này ngày nay đã xảy ra trong nước và hải ngoại, gần đây đã có một nhóm người Việt “tị nạn” ở Mỹ đã cổ võ cho kế sách nuôi các “sinh viên” trong nước đi ra. Hoa Kỳ và các nước Tây phương hiện nay có lẽ vẫn chưa hiểu nỗi kế sách “trồng người” này của Bắc Kinh và Hà Nội như thế nào.
          Ngoài các Quân sự khu, Tư pháp khu, Hành chính khu, tất cả các cơ cấu khác đã đan lát lại thành một mạng lưới sắt vô cùng chặc chẻ tựa như hàng vạn gọng kềm sắt nóng đã kẹp chặc người dân Việt dưới một ách thống trị cực kỳ tàn ác. Chúng lấy máu và nước mắt để cai trị người dân Việt vô cùng hà khắc, tàn bạo không thể nào kể xiết. Những cơ cấu ở trên chắc chắn phải có bàn tay phụ giúp đắc lực của bọn người Việt làm tay sai cho phương Bắc (tình hình Việt Nam ngày này đã rập khuôn ngày xưa không khác) chính sách của họ là tiêu diệt và đồng hóa người Việt Nam. Kinh nghiệm đã cho thấy chúng dùng văn hóa lưỡi lê và kinh tế để ép người Việt mặc áo Tàu, đọc sách Tàu, nói tiếng Tàu. Bắt và bán Tinh Hoa của người Việt (bài trước có nói đến) sang Tàu và các nước lân bang, chiêu dụ các nhân tài lộ diện hay về nước rồi tìm cách giết đi. Di dân tù tội ở bên Tàu sang tranh, cướp cũng như chiếm tài sản đất đai của người Việt. Như vậy họ đã có cả một kế sách lâu dài là: phá hết ruộng vườn của người Việt Nam, đẩy người dân Việt (nhất là thanh nữ) đi làm lao nô (cũng như phục vụ tình dục) ở nước ngoài, họ cho di dân người Tàu tràn sang (gần đây Hà Nội chúng có lệnh bỏ ngõ biên giới Tàu-Việt là kế sách này đây) chiếm ngụ đất đai, ruộng, vườn. Sau này khi trở về quê hương thì người dân Việt không còn nơi để sinh sống và không có kế sinh nhai. Như vậy họ sẽ trở thành những kẻ sống lưu vong ngay trên quê hương của họ sao?!.
          Sách lược đô hộ vô cùng chu đáo. Bọn nội thù Việt và ngoại xâm nhà Minh đã bóc lột và cai trị người dân Việt, thì xét ra kim cổ Á, Âu chưa bao giờ có, tầng lớp sĩ phu và dân chúng Việt như bị hàng nghìn ngọn roi thép lạnh đánh thấu buốt tâm can, xương tủy. Họ đã tỉnh dậy sau một giấc mơ hãi hùng, ngay những kẻ đã cam tâm làm Việt Gian theo giặc cũng âm thầm hối hận; họ không ngờ bọn người xâm lăng tàn ác đến mức độ khốc hại như vậy. Trừ có những kẻ đã có bệnh Ma Mộc Bất Nhân hoặc họ có căn cốt làm nô lệ cho người mới điềm nhiên ngồi nhìn ngoại bang chà đạp trên xương máu của chính đồng bào mình. “Nước Mất thì Nhà Tan”, quá khứ đã chứng minh như vậy!.
          Tóm lại nhà Minh đã dùng chiêu bài “phù trần” để xâm lăng và đày đọa cả dân tộc Việt. Người dân lúc nào cũng sống trong cảnh đói rét triền miên, đớn đau tủi nhục của một kiếp người bị tước đoạt hết tất cả. Trước tình cảnh đau thương đó Đức Lê Lợi xướng nghĩa một cuộc cách mạng cứu nước đã làm nô nức lòng người, nên mọi nhà đều có người sẳn sàng hăng hái chờ đợi cơ hội đầu quân đánh giặc (xin xem lại bài 1).

3) Theo Bắc Bình Vương, Tiến Đánh Thăng Long:

Tháng 11 năm 1788 Đại Tướng Ngô Văn Sở từ vùng rừng núi Tam Điệp đã cấp tốc báo về Phú Xuân rằng: đại binh của Tôn Sĩ Nghị đã theo lệnh của Càn Long (Kiền Long) dưới danh nghĩa “cứu nhà Lê” đã đem binh tiến vào Thăng Long với khí thế rất mạnh. Quay sang kẻ tả hữu Quang Trung Nguyễn Huệ nói rằng: “Có gì phải hốt hoảng, chúng vào đất nước Việt ta là chỉ mua lấy cái chết mà thôi!”. Để tranh lấy cái “Thế”, đoạt nhân tâm. Ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân; Nguyễn Huệ lên ngôi vua lấy niên hiệu là Quang Trung. Ngài cho lệnh chuẩn bị xuất quân. Từ giã Bàn Sơn (Bàn Sơn vùng phía Nam núi Ngự Bình) cùng với đoàn quân Thủy, Bộ; Bắc Bình Vương rầm rộ tiến quân ra Thăng Long.



Ngày 29 tháng 11 năm Mậu Thân đại quân của Bắc Bình Vương đã đến vùng rừng núi Nghệ An, tại đây Ngài cho dừng quân và tuyển mộ thêm binh. Dân xứ Nghệ lại một phen nô nức đầu binh diệt giặc. Binh mới hơn 100 nghìn (100,000) và hơn 350 tượng binh (Chiến Tượng). Trước mặt toàn thể quân đội Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ với lời cả quyết và ý chí sắt thép Ngài dõng dạc tuyên bố:

1)Quân nhà Thanh đã sang đất nước chúng ta với mục đích xâm lăng, cướp nước và hiện chúng đang chiếm đóng kinh đô Thăng Long.

2)Trung Hoa; Việt Nam là hai vùng đất khác nhau mà trời đất đã phân biệt rõ ràng như vậy. Nay quân Thanh đã bạo ngược xâm lấn nước ta, nên toàn dân phải nghĩ đến sự quật khởi để cứu nước.

3)Tổ tiên Việt chúng ta đã bao đời chứng mình rằng: chỉ có sự chiến đấu mới có thể sống còn với bọn “nội thù” và bọn ngoại xâm phương Bắc. Từ thời Đinh Tiên Hoàng Đế đến nay đã nhiều lần tổ tiên ta đánh đuổi bọn xâm lăng ra khỏi bờ cõi nước Việt.

4)Triều đình Mãn Thanh đã không chịu học bài học các tiền triều của họ trong quá khứ, lần này nhà Thanh sẽ chuốc lấy thảm bại, và họ sẽ học được bài học lịch sử này. Nay toàn dân phải cùng nhau dốc lòng tiêu diệt bọn xâm lăng và bọn Việt Gian phản trắc.


Tiếng nói của Bắc Bình Vương vang dội như chuông ngân giữa đám ba quân với lời nói hùng hồn quyết tâm đã làm nức lòng bao chiến sĩ Việt. Và với một chiến dịch hành quân thần tốc mà các binh gia cổ kim ít có người nghĩ ra cũng như áp dụng. Phương pháp “Rút Đường”kỳ dị này của quân đội Tây Sơn đã chuyển quân thật thần tốc ngoài sự dự liệu của đối phương (có người lại đặt giả thuyết cho rằng: “Hai người dùng cán khiêng Một người”. Nhưng theo Vân Anh thì đi hành quân trong rừng núi chứ không phải đi ngoài đường lộ thênh thang như ngày nay, thì 3 người cùng đi có lẽ còn khỏe hơn là 2 người khiêng 1 người. Như trên có nói đây là phương pháp “Rút đường” của người xưa vẫn còn lưu truyền đến ngày hôm nay).
Với một phương pháp chuyển quân đặc biệt và những thế đánh như vũ bão. Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ với chiến thuật “Trung Ương Đột Phá” đã đẩy hai mươi lăm (25) vạn binh (không phải 20 vạn) hùng mạnh của nhà Thanh vào thế bị động (thế thủ), mỗi trận đánh phải giải quyết gọn; nhanh, nên khiến quan quân nhà Thanh không có thời gian để kịp xoay trở tìm thế trận phản công.
Ngày 20 tháng 12 năm Mậu Thân, đại binh của Bắc Bình Vương đã tiến đến vùng núi Tam Điệp là nơi tiếp giáp giữa hai tỉnh Thanh Hóa và Ninh Bình, Ngài ra lệnh dừng quân chỉnh đốn binh mã để chuẩn bị “Tiến đánh Thăng Long núi Nùng sông Nhị”. Theo địa thế thì chung quanh Thăng Long (Hà Nội bây giờ) là vùng đồng bằng, không có nơi hiểm yếu để giữ, vì vậy địa thế Thăng Long bốn mặt đều có thể là chiến trường do đó rất tiện lợi cho thế trận “Nội Công, Ngoại Kích”(bên trong đánh ra, bên ngoài đánh vào) mà Bắc Bình Vương đã dự liệu.
Năm Quang Trung thứ Tư; biết thế nào cũng có việc binh biến giữa Việt và Mãn Thanh. Vua Quang Trung đã ngầm hạ lệnh cho các “chùa” (kiểu chùa đời nhà Minh có nói trên) phải giao nộp đồng để đúc tiền làm rộng tài nguyên và rèn binh khí. Các “sư, sãi” không đủ đức độ thì cho hoàn tục và trở về nguyên quán, hay xung vào các đội dân binh lo cho việc quốc phòng khi có biến, các “chùa” không hợp với văn hóa Việt, thì phải bị phá bỏ để trả đất lại cho “Hương Điền” và phát đất ra cho dân cày cấy thu hoạch lương thực để nuôi binh. Vua Quang Trung rất chú trọng đến việc kinh tế và thương mại, nên Ngài cho lập “Nha Hàng” với mục đích đưa dân thương buôn sang các tỉnh Vân Nam, Quảng Đông, Quảng Tây để “buôn bán” với người Tàu.
Từ các tổ chức thương buôn này Nhà Tây Sơn đã âm thầm ra lệnh cho “mật binh” (một loại quân tình báo kinh tế ngày nay) phải yểm trợ tối đa cho các tổ chức “Thiên Địa Hội”khắp nơi trên nước Tàu (“Thiên Địa Hội” một đảng chính trị của tôn thất nhà Minh lập ra để chống lại triều đình Mãn Thanh. Sau khi đánh bại nhà Thanh, triều Tây Sơn có cho một số thành viên Thiên Địa Hội được sang Việt Nam lập nghiệp ở vùng miền Trung, ngày nay gọi họ là người Minh Hương), để thâu tóm tin tức, cũng như gây xáo trộn triều đình Mãn Thanh, cơ quan tổ chức bí mật Thiên Địa Hội này cũng mong muốn xoay đổi thời thế. Các tay võ tướng nhà Minh đa số thuộc giòng giống người Hán nên võ nghệ họ cao cường, họ hoạt động nhiều nhất ở vùng Vân Nam, Tứ Xuyên. Triều đình Tây Sơn đã ngầm lệnh cho các “mật binh” đã trợ lực và giúp đỡ cho lực lượng Thiên Địa Hội này, nhiều lần nổi lên đánh phá các trạm binh và nhiều nhất là ở các vùng biên thùy Việt - Hoa, những tuyến lộ giao thông ở phía Đông Nam Trung Hoa.
Đêm 30 Tết năm Mậu Thân sang Kỷ Dậu (1789), trời tối mịt mù quân Tây Sơn âm thầm vượt qua bến đò Gián Khuất, tướng nhà Lê là Phùng Hoàng Nghĩa đang giữ trấn Sơn Nam (Nam Định) hoảng sợ đem quân chạy về sông Nguyệt Quyết thuộc huyện Thanh Liên tỉnh Hà Nam. Bọn thám tử của nhà Thanh cũng hoảng vía trốn chạy đến trấn Phú Xuyên tỉnh Hà Đông, thì bị phục binh của Đô đốc Long vây bắt trọn. Mồng 1; mồng 2 Tết năm Kỷ Dậu, các trấn khác cũng rơi vào tình trạng tương tự. Mất liên lạc; các trấn không gởi tin về, quân Tôn Sĩ Nghị ở Thăng Long xem như “mắt mù, tai điếc!”.
Mồng 3 Tết năm Kỷ Dậu nửa đêm quân Thanh đang ngủ kỹ trong đồn Hà Hồi. Tiếng loa, tiếng chiêng, tiếng trống, tiếng gào thét bỗng nổi lên, như muôn tiếng thiên binh vạn mã từ trên trời cao ập xuống, khủng khiếp tựa như trời long đất lở. Quân nhà Thanh không còn hồn vía nên hạ lệnh kéo “cờ trắng” quy hàng. Quân Tây Sơn lấy đồn Hà Hồi không tốn một mũi tên.
Phàm khi quyết định một cuộc chiến thắng hay bại phần nhiều do quân tình báo, gián điệp có giỏi; có làm tròn công tác được giao phó hay không!, khi gởi các tay tình báo đi ra ngoài (hay ra nước ngoài), đã không có tin vui tin về, mà còn bị đối phương vây bắt (bị lật mặt nạ ăn cắp) trọn nhóm, và khi đã bị bại lộ; thì bằng cách này hay cách khác phải khai báo công tác của mình đang thi hành. Như vậy thì cả một kế sách phải lãnh lấy sự thất bại. Tựa như Cộng sản ngày nay đã không còn các nhân viên tình báo cũng như gián điệp giỏi. Vì kế sách hoàn toàn đã bại lộ, các đạo quân gián điệp hải ngoại mặc dù đã được quan thầy (Mỹ Gian) tạo điều kiện giúp đỡ từ: dàn cảnh, cài người, rỉ tai, cho đến cung cấp các phương tiện tiền bạc cũng như nhân sự, (riêng nhân sự thì rất nhiều vì chúng đã nằm ở Mỹ này rất lâu) để chúng “rặn ra thơ”; “nặn (g) ra thợ”. Nhưng cuối cùng bọn này cũng chỉ là một lũ ăn hại đái nát nên chúng không những không thể “xào” hay “xạo” nên tích sự gì; mà còn bị đối phương gài bẫy lật mặt một cách nhục nhã, bao nhiêu kế sách của Hà Nội và Bắc Kinh ở hải ngoại đều bị bại lộ. Từ đó đến nay mồm chúng câm như Hến. Tác giả tập thơ Vô Đề với “công trình làm việc trong suốt hai mươi năm trời”, ông đâu có thể dễ dàng bị “gài bẫy” và lộ diện một cách lộ liễu như vậy!.
Rạng sáng ngày mồng 4 Tết năm Kỷ Dậu đồn Ngọc Hồi lại thất thủ, tàn binh nhà Thanh đã chạy tản mác khắp nơi. Tôn Sĩ Nghị đã được quân cấp báo đồn Ngọc Hồi và Điền Châu đã bị hạ và quân Tây Sơn đang tiến vào các cửa ô bao vây Thăng Long. Tôn Sĩ Nghị nghe tin thất kinh mất cả tinh thần, nên ngựa không kịp đóng yên, Nghị cùng vài thân binh vượt cầu phao trên sông Nhị Hà để chạy sang Bắc Ninh, các quân; tướng nhà Thanh ở các doanh trại cũng chạy theo Tôn Sĩ Nghị, quá đông người chạy trên cầu phao cùng một lúc. Tôn Sĩ Nghị ra lệnh chặc cầu phao; tướng sĩ bị rớt xuống sông hết cả, xác người chết làm tắc nghẽn cả giòng nước, trong số chết này có tiến sĩ võ khoa phó tướng Lý Hóa Longđi đoạn hậu để chận đường truy đuổi của quân Tây Sơn. Tôn Sĩ Nghị kinh hãi chạy đến Phượng Nhỡn, nghe báo tin từ phía Đông quân Tây Sơn đang đánh sang. Hốt hoảng Nghị cùng kẻ thủ túc (đội cận vệ) đã vứt bỏ cả Sắc thư, Cờ hiệu, Lệnh bài, Ấn tínđể dễ dàng chạy thoát thân.
Vua Quang Trung đã liệu trước nên Ngài đã đặt các toán binh dàn sẳn từ vùng Thanh Trì sang đến Hà Đông, từ Đại Áng đến Quỳnh Đô hàng vạn quân Thanh bị quân Tây Sơn phục kích và bắt sạch. Thừa thắng tiến về Thăng Long, quân Tây Sơn hạ đồn Văn Điển và Yên Quyết, các tướng nhà Thanh như: Đề đốc Hứa Thế Hanh, Tiên phong Trương Triều Long, Tả dực Thượng Duy Thăngvà một số chiến tướng khác đã bỏ xác ngay tại chiến địa. Cùng thời gian đó quân Tây Sơn của Đô đốc Longvà Tướng Đặng Tiến Đôngđã vây kín Khương Thượng. Sầm Nghi Đống đã cố gắng cầm cự trong tuyệt vọng, vì không binh viện không đạn dược, nên Sầm Nghi Đống phải bỏ thành Khương Thượng mà chạy. Tướng Đặng Tiến Đông đem quân theo bủa vây khắp các ngã, sau cùng kéo tàn binh chạy về dưới chân núi Loa, Đốngtrốn ra cái thắt cổ trên cành cây Đa, nên người ta gọi nơi này là “Gò Đống Đa”(Đống thắt cổ trên cành Đa - Gò là một ụ đất nhỏ).
Sau này có dịp đi ngang qua “Gò Đống Đa”, nữ sĩ Hồ Xuân Hương có làm 4 câu thơ mỉa mai rằng:
- Ghé mắt trông ngang “thấy biển” treo
- Kìa đền “ông Đống” đứng cheo leo
- Ví đây “đổi phận làm” trai được
- Thì “sự anh hùng” há bấy nhiêu.
Khuya ngày mồng 4 rạng sáng mồng 5 Tết năm Kỷ Dậu, vua Quang Trung cho lệnh thu quân lương tập trung vào một khu rồi cho đốt sạch, ngồi trên chiến tượng vua Quang Trung cổ quấn khăn vàng, vai khoát chiến bào màu đỏ dẫn quân xung lên phá đồn Ngọc Hồi. Quân Thanh ứng chiến bằng kỵ binh, nhưng chiến tượng khi gặp chiến mã lại rống lên từng hồi. Ngựa hoảng loạn tan hàng ngũ bỏ chạy. Trời còn tối quân Thanh lại bắn thuốc súng như pháo nổ khói tỏa mịt mù. Quân Tây Sơn tiến lên trong lằn đạn, phá cửa lũy tràn vào đồn như nước vỡ bờ. Trong đồn Ngọc Hồi quân Tây Sơn và quân nhà Thanh dùng đoản đao đánh cận chiến với nhau. Hầu đẳng Thị vệ Phó tướng Hình Đôn Hành đã bỏ xác tại đây. Lớp này ngã thì lớp khác xông lên. Đao kiếm, sắt thép chạm vào nhau cộng với tiếng thét, tiếng la của những chiến binh hai phía ngã gục, đã tạo thành những âm thanh man rợ, hãi hùng như từ cõi âm ty nào đó vọng về. Giữa chiến địa thân người ngã xuống nằm ngỗn ngang như rạ, tiếng rên la, tiếng khóc than, tiếng gào thét. Mùi máu tanh, mùi thây người bị cháy vì súng Hỏa Hổ (một thứ súng rất lợi hại của quân đội Tây Sơn thời đó), mùi thuốc súng, cả thành Thăng Long như chìm trong biển lửa.
Trong bóng tối mập mờ; các chiến binh Tây Sơn chỉ là các bóng đen nhào lộn lăn xả vào trong một rừng gươm đao, họ đâm chém tới tấp. Tiếng súng nổ, tiếng địa lôi vang động cả một không gian đen dầy. Giữa chiến địa muôn nghìn tiếng gào thét rên la chen nhau giữa tiếng trống thúc quân, tiếng chiên xung kích, tiếng kèn lâm trận. Một cảnh tượng vô cùng kinh khiếp diễn ra ngay chiến địa. Quân Tây Sơn càng đánh càng hăng, cuộc chiến mỗi lúc lại thêm ác liệt. Quân Thanh chịu không nổi trước sức tấn công quyết tử của các đội tinh binh Tây Sơn, cuối cùng quân Thanh phải bỏ chiến địa mà chạy. Do mất phương hướng (đốt khói quá nhiều) nên quân Thanh dẫm nhầm vào các địa lội do chúng chôn từ trước, mỗi tiếng nổ là tướng sĩ nhà Thanh thân thể tan như xác pháo. Cuộc quyết chiến ác liệt kéo dài từ nửa đêm đến gần sáng thì chấm dứt, để lại chiến trường ngỗn ngang xác chết của quân Thanh không còn nguyên vẹn, máu người chảy đóng thành vũng. Thật là một cảnh tượng kinh khiếp như chưa bao giờ có trên thế gian này.
Khoảng 4 giờ chiều ngày mồng 5 Tết năm Kỷ Dậu vua Quang Trung cùng đại binh Tây Sơn và 80 chiến tượng tiến vào Thăng Long, chiến bào đỏ của Bắc Bình Vương đã đổi sang màu đen vì hơi khói và thuốc súng. Vua Quang Trung làm lễ khao binh sau khi chiến thắng nhà Thanh và giải quyết xong vấn đề Bắc Hà, mọi việc định đoạt Ngài giao lại cho Văn thần Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, và Võ tướng Ngô Thời Nhiệm, Phan Huy Ích rồi lên đường về Trung. Núi Nùng sông Nhị đồng loạt nổi lên tiếng hoan ca như đưa tiễn người anh hùng dân tộc trở lại Tây Sơn.
Các điều viết ra ở trên đã cho chúng ta thấy lịch sử mấy trăm năm trước đang tái diễn, bọn Trung Cộng và bọn Việt Gian Cộng sản ngày nay đang rập khuôn sự cai trị hà khắc của bọn nhà Minh, nhà Thanh đối với nhân dân Việt Nam. Sự bất tài của bọn Việt Gian Cộng sản cũng như sự kiệt quệ thất nhân tâm của bọn cầm quyền Trung Cộng ngày nay cho chúng ta thấy rõ rằng: Cộng sản (nói chung) không thể tồn tại mãi trên sân khấu chính trị của đất nước Việt Nam hay Trung Hoa nói riêng và thế giới nói chung. Mọi nền móng, cơ cấu của cái nôi Cộng sản đã mục nát (cứ nhìn nước Nga ngày nay là hình ảnh rõ nhất) và tan rã từ năm 1989 (đúng 200 năm sau ngày vua Quang Trung đại thắng quân Thanh 1789 - 1989). Nay thời đã thay; thế đã đổi thì làm thế nào tập đoàn Cộng sản Việt và Cộng sản Tàu lại tránh khỏi bị sụp đổ?!.
Người dân của hai chế độ Cộng sản (Việt - Hoa), họ bị hà khắc, bóc lột đến tận xương, cho nên họ phải tự võ trang và tự đứng dậy để hỏi tội tập đoàn Việt Gian và Tàu Gian Cộng sản. Chế độ của Cộng sản Việt Nam nói riêng cho dù muốn hay không, thì cũng đến lúc chúng phải bị toàn dân Việt Nam trong và ngoài nước tiêu diệt chúng bằng võ lực. Nếu chúng cứ mãi bám víu vào quyền lực để bóc lột người dân Việt, thì cái chết có lẽ còn thê thảm hơn. Con thuyền quốc gia Việt Nam không thể mãi trao cho các tay lái ngu dốt, ù lì, bất tài và bất xứng, sinh mạng của hơn 90 triệu người dân Việt Nam trong và ngoài nước càng không phải là một trò đùa để cho bọn Việt Gian Cộng sản đem ra làm trò tiêu khiển hay dùng đó như một lợi khí để trao đổi, buôn bán với các thế lực ngoại bang. Vân Anh thiết nghĩ các nhà lãnh đạo của các quốc gia “văn minh” phương Tây cũng nên hiểu rõ như vậy, để con “đường đi” (policies) của quốc gia họ ngay bây giờ và trong tương lai không bị “nhầm lẫn” một cách đáng tiếc!.
Trong tương lai nếu tình hình chính trị cho phép, Vân Anh sẽ có những loạt bài tố cáo tội ác của bọn Tàu Gian từ vợ chồng Nhiếp Quế Sương, tài phiệt Khổng Tường Hy, Tôn Văn và cho đến bọn Tàu Gian Cộng sản hôm nay, họ đã bán đứng đất nước Việt Nam và dân Việt như thế nào. Ngày nay giữa năm 2012 cũng còn hàng vạn “trí thức” người Việt trong nước và hải ngoại vẫn chưa biết rõ bộ mặt gian ác của những tên Tàu Gian nói trên như thế nào. Nhất là bọn Việt Gian trong nước vẫn ôm chân “mẹ” Trung Cộng để hòng chia chác xương, máu người dân Việt thêm nửa. Thiết nghĩ người Trung Hoa từ miền Nam sông Dương Tử chạy về phía Nam, họ cũng là anh em cùng giòng giống Bách Việt như chúng ta, nên chúng ta phải có bổn phận nói lên sự thật của lịch sử để bảo vệ giống nòi Bách Việt nói chung.
Một điểm quan trọng nửa mà Vân Anh muốn chia sẽ với quý đọc giả là: Hơn 500 năm trước ở đâu đó trên nước Việt, môn phái Bạch Vân (hiện đang còn truyền nhân)đã có nói đến sự trở về nguồn của lớp Hậu Duệ nhà Lý, nhà Mạc, sự trở về của các dân tộc phía Nam sông Dương Tử và các bộ tộc Bách Việt trong vùng Động Đình Hồ. Ngày nay sự thật này đã bắt đầu hé lộ cho chúng ta thấy. Bằng chứng hiển hiện nhất là con cháu nhà Lý từ Đại Hàn đã về nước. Khoa khảo cổ thế giới vào tháng Sáu (June, 2012) vừa qua cũng đưa ra kết luận: “khoảng 40,000 (40 nghìn) năm trước, giống dân Việt Nam (ngày nay) đã xuất từ vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng (vùng Hà Nội bây giờ) đi ngược lên phía Bắc, và 20,000 (20 nghìn) năm sau đó đã trở thành người Trung Hoa và các sắc tộc vùng Trung Nguyên ngày nay như chúng ta thấy. Điều này Vân Anh không dám lạm bàn trong một bài viết ngắn này, mà chỉ viết ra những gì đã được khoa khảo cổ học của thế giới vừa mới thông tin như vậy.
Từ năm 1945 cho đến hôm nay máu của hàng chục triệu người dân Việt đã đổ ra cho mục gì?!, và cho ai?!, các tập đoàn tài phiệt nào trên thế giới đã thủ lợi trên xương máu của hàng chục triệu người Việt Nam vô tội trong mấy mươi năm qua?!. Thời điểm này trở đi cho dù Mỹ và phương Tây có muốn hay không, thì xã hội Việt Nam hiện nay chắc chắn phải được thay đổi bằng một cuộc các mạng bạo lực như đã nói. Hiện nay những người cầm đầu về “chính trị” trong nước thật quá kém cỏi, những người cầm quyền về quân sự lại càng bất tài hơn. Trung Cộng đã thật sự làm chủ đất nước Việt Nam, mà hàng bao nhiêu trí thức trong nước đã và đang khoanh tay cúi đầu chịu lệnh của bọn giặc và bọn Việt Gian!. Ở hải ngoại thì cũng không có gì khác cho lắm, cũng với những tên Việt Gian tranh nhau sân khấu để diễn tuồng “chính trị” như từ trước đến nay, cũng những tên thầy dùi cùng với những cái đầu đặc sệt như ngày nào. Cũng vẫn một số tên tự vỗ ngực cho mình là “học giả”, “trí thức”, nhưng lại bất tài và bất lương một cách bệnh hoạn, cũng những tên hoạt đầu chính trị chỉ chuyên làm theo các chỉ thị của quan thầy Nga, Tàu, Mỹ, Pháp ..v.v..
Với những phần tử mấy mươi năm qua chỉ chuyên làm băng hoại niềm tin của người Việt như trên. Thì ngược lại những phần tử trí thức thật sự yêu nước thương dân, họ đã và đang âm thầm làm việc bất kể ngày đêm, dứt khoát đặt “Tư Tưởng Dân Tộc” lên hàng đầu và quan trọng nhất là các hoạt động của họ thật kín đáo. Chúng ta phải chú tâm đến các “cơ sở hạ tầng” nào của (hai tập đoàn Cộng sản Việt và Tàu) chúng, mà ta cần phải phá vỡ trước khi có mật lệnh đột biến. Các cơ sở buôn bán “chạp phô” của người Tàu trên đất Việt là các cơ sở cung cấp lương thực cho quân ngoại nhập Tàungay trên đất Việt. Các kho chứa lương thực, thực phẩm của tập đoàn Việt Gian Cộng sản là nơi cung cấp và cung ứng lương thực, nhiên liệu cho lực lượng “quân sự” của tập đoàn Cộng sản Bắc Kinh và Hà Nội, để trấn áp người dân Việt khi tình hình biến loạn.
Muốn hóa giải các phương pháp nói trên, thì trước nhất các kho chứa võ khí cần phải được mở cửa cho người dân Việt có phương tiện để họ tự vệ hoặc để tấn công quân ngoại nhập Trung Cộng, phải đề cử những thành phần có uy tín với dân (không phải với đảng) trong thôn xã để giữ vững an ninh xã hội, cũng như bắt giữ các thành phần cần phải bắt giữ, nhất là bọn chuyên làm Việt Gian tay sai cho ngoại bang, bọn này rất nguy hiểm cho sự ổn định của xã hội Việt Nam ở bất cứ thời điểm nào. Chúng ta phải quyết tâm trừ khử bọn Việt Gian chuyên làm tay sai cho ngoại bang để trong sạch hóa đất nước Việt. Phải 30 năm sau hay là từ năm 1945 - 1975 toàn dân Việt mới nhìn thấy tập đoàn Việt Gian Cộng sản do tên Hồ Chí Minh cầm đầu chỉ là một tổ chức điêu ngoa, ma giáo, lừa phỉnh tuyên truyền bịp bợm, chúng chỉ là đám Việt Gian chuyên làm tay sai cho Nga, Tàu. Các đảng viên Cộng sản lầm đường phải ý thức được đất nước và dân tộc là trên hết, chứ không phải “đảng” Cộng sản. Nay Đảng Cộng sản không còn nửa thì tin vào đâu?!.


Kết:
Đời sống mỗi cá nhân thì hữu hạn; mà đời sống của xã hội loài người thì vô hạn. Cho nên muốn chống lại chủ trương duy lợi nhuận của Cộng sản, người ta phải đề cao chữ Nhân và lấy con người (không phải vật chất) làm gốc, thiếu chữ Nhân là chối bỏ con người, chối bỏ có nghĩa là phá hỏng xã hội mình đang sống. Tàn phá xã hội mình đang sống là Tự Tàn Phá Chính Gia Đình và Bản Thân Mình. Khi đã ý thức được như vậy, thì người ta phải sống dung hòa giữa tinh thần và vật chất, như sự tương đồng giữa đôi cánh của con chim. Góp tay thực hiện một xã hội hài hòa là chúng ta đã hướng cả tâm trí của mình vào điều Chân; Thiện, Mỹ. Chân, Thiện, Mỹ xác nhận giá trị nền tảng của con người. “Nền tảng xã hội” là lý tưởng đưa con người đến đời sống toàn diện hơn. Đời sống chân, thiện, mỹ là đời sống không ở đâu xa xôi mà là đang ở đây, tại đây, ngay trong cõi đời chúng ta đang sống này. Vì mơ tưởng và tìm kiếm những điều không có thật là nguyên nhân gây khổ nạn cho biết bao thế hệ con người từ trước đến nay.
Hiểu được như vậy, đời sống dung hòa được giữa vật chất và tinh thần, tìm cách thực hiện một đời sống thích hợp với thực tế giữa bản thân, gia đình và xã hội con người. Nhận thấy lý thuyết Tư bản và Cộng sản cũng chỉ là những lý thuyết kinh tế suông và đã thật sự thất bại trong việc mang lại tự do, bình đẳng cơm no áo ấm cho con người và nhất là giá trị chân thực cho con người. “Là người, Làm người và Thành người”là lý tưởng nhân bản, nhân tính trong chủ thuyết Nhân Chủ. Triết Lý Nhân Chủ sẽ tháo gỡ các bế tắc cho xã hội Tư bản cũng như Cộng sản. Tâm trong; Óc sáng người viết luôn có những ước mơ tốt lành hơn cho các thế hệ sau này. Những đóng góp bây giờ giúp một phần nào cho các thế hệ đi sau, từ đó sẽ dễ dàng cho công cuộc phục hưng đất nước Việt.


Để kết thúc bài viết này mời quý bạn đọc thưởng thức Bốn câu thơ dưới đây:
- Đêm bão giật, lửa lòe, muôn tiếng sét
- Nổ đùng đùng như đánh phá sơn lâm
- Nước tự trời cao đổ xuống ầm ầm
- Cả rừng núi lồng lên, gầm quát thét.
Vân Anh
(*) Thương vạn vật ở đây xin hiểu là khác với sự “thương chó, thương mèo” một cách trơ trẽn, lố bịch. Họ bỏ tù con người vì một con chó kiểng- chuyện này xảy ra ở thành phố San Jose, bang California, Hoa Kỳ. Tòa án thành phố này đã ra lệnh phạt 3 năm tù ở cho một anh kỹ sư hảng điện toán IBM, vì “tội” lỡ tay quăng con cho ra ngoài đường. Sau khi ra tù anh ta còn bị khép vào “thành phần nguy hiểm cho xã hội”. Ở các xứ Tây phương “văn minh” Âu Châu, có nơi họ mở cả một nhà hàng sang trọng chỉ để Phục Vụ Cho Chó Và Mèo. Đau Đớn Nửa Là Họ Dùng Con Người Để Phục Vụ Cho Súc Vật. Còn con người thì họ ghét bỏ, coi khinh và bán đứng, nhưng không phải họ bán đứng một vài người, mà họ bán cả một dân tộc của người khác, cũng bởi “đám” người này da họ màu vàng và họ là người Việt Nam!!!.