Việt Nam Cộng Hòa bị bức tử
Kính dâng lên những vị anh hùng trẻ tuổi người Việt Nam, người Mỹ và người Pháp, những người đã anh dũng nằm xuống trong một cuộc chiến cùng chung một mục đích thiêng liêng: “TỰ DO CHO TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC “
Xin đốt một nén tâm hương, kính cẩn cầu nguyện cho anh linh Quân Dân Cán Chính Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh cho Tổ Quốc và cho Chánh Nghĩa Quốc Gia Dân Tộc Xin thành tâm kính cẩn cầu nguyện cho tất cả Anh Linh Quân Dân Cán Chính Việt Nam Cộng Hòa đã anh dũng tuẩn tiết hay đã thảm thương chết tức tưởi trong ngục tù cộng sản, hoặc trên đường đi tìm tự do từ sau ngày mất nước 30 tháng 4/1975
ĐƯỢC SỚM VỀ NƠI AN NGHỈ TRÊN CÕI THIÊN ĐÀNG, CỰC LẠC.
ĐƯỢC SỚM VỀ NƠI AN NGHỈ TRÊN CÕI THIÊN ĐÀNG, CỰC LẠC.
THAY LỜI TỰA
Ngày quốc hận 30/4/1975 đã qua đi trên 20 năm rồi.
Trong khoảng thời gian 20 năm đó đã có rất nhiều người viết hay nói về những ngày cuối cùng của tháng tư đen lịch sử nầy, và gần đây nhất chúng ta thấy có ông Mac Namara cựu bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ, với quyển hồi ký “Nhìn Lại Thảm Kịch và Những Bài Học Việt Nam” (In Retrospect, The Tragedy And Lessons Of Việt Nam). Ông cho tung ra quyển nầy vào đúng lúc cộng sản Việt Nam làm lễ lớn khắp nước ăn mừng 20 năm ngày mà họ cho là “Đại Thắng Mùa Xuân”, mừng ngày chiến thắng “Mỹ-Ngụy”!
Hồi ký của ông đã để lộ hẳn cái hèn của một chánh khách Mỹ có tầm cỡ, vì ông không biết thẹn là đã có hành động phản bội với đồng minh, vừa bàn giao Việt Nam Cộng Hòa cho bọn cộng sản (nếu không muốn nói là bán đứng), vừa đổ hết trách nhiệm mất nước cho quân dân cán chính Việt Nam Cộng Hòa.
Ông đã khóc (nước mắt cá sấu!) khi bị phỏng vấn trên đài ABC, thật tội nghiệp ! có lẽ khóc vì quá mắc cở và vì có quá nhiều mặc cảm tội lỗi trong chiến lược “phải để cho ta bị chiến bại”. Ông không hề khóc cho 58,000 quân nhân Mỹ các cấp dưới quyền ông đã phải bị hy sinh oan uổng cho cái “thuyết domino” mà đến giờ nầy ông mới cho là sai, làm tủi hổ vong linh những người đã bỏ mình cho chính nghĩa chống Cộng của Thế Giới Tự Do (trong thời kỳ còn chiến tranh lạnh) đồng thời làm nhục cả quân nhân các cấp thuộc đủ mọi quân binh chủng Hoa Kỳ đã từng tham gia anh dũng trong cuộc chiến ở Việt Nam.
Dĩ nhiên ông cũng không bao giờ nghĩ đến hay nhắc đến quân dân cán chính miền Nam Việt Nam mà hai đời Tổng Thống Hoa Kỳ vẫn gọi và xem họ là người đồng minh kiên cường trong nhiệm vụ chống Cộng, giữ vững tiền đồn chống cộng của Thế Giới Tự Do ở Đông Nam Châu Á.
Người ta còn thấy rõ cái tồi của ngài Mc Namara là ngài “phải khóc” để được Cộng Sản cấp chiếu khán cho ông qua Việt Nam vào tháng 9/95 nầy (cũng lại là quyền lợi trên hết!) chớ không phải khóc vì trách nhiệm lịch sử của một “kiến trúc sư” về chánh sách của Hoa Kỳ từ thập niên 60 để nướng sống trên 50 ngàn chiến binh Mỹ và trên 3 triệu quân dân cán chánh Việt Nam Cộng Hòa.
Thật đáng tội nghiệp cho một người khoác áo chánh khách Mỹ có tên tuổi như ông mà cho đến 20 năm sau cuộc chiến ông vẫn còn chưa hiểu tý gì về con người Cộng Sản, mãi đến 20 năm sau mới vừa “biết được ta mà chưa biết được người” nên thua nhục là quá đúng!!!
Bây giờ chúng tôi xin trân trọng giới thiệu với anh chị em trong cộng đồng người Việt tị nạn cộng sản của chúng ta một quyển sách nhỏ có tựa đề là “LA MORT DU VIệT NAM” . Lẽ ra chúng tôi phải dịch là “SỰ SỤP ĐỔ CỦA VIỆT NAM CỘNG HÒA”. (Hai chữ “Việt Nam” mà người Pháp thường dùng là để chỉ cho quốc gia VNCH, và “Bắc Việt” là danh từ họ thường gọi để chỉ cho VNDCCH), hoặc để tỏ lòng kính trọng tác giả chúng tôi phải dịch sát nghĩa là: “Cái chết của nước Việt Nam “, nhưng chúng tôi xin dịch là “Việt Nam Cộng Hòa bị bức tử” để cho thêm rõ nghĩa sự kiện lịch sử ngày 30/4/1975.
Tác giả quyển sách bé nhỏ nầy là Đại Tướng Vanuxem, từng là sĩ quan cao cấp của quân đội Pháp tại chiến trường Bắc Việt cho đến 1954, sau đó thỉnh thoảng vẫn có sang thăm Việt Nam với tư cách một tướng Pháp, thượng khách của Việt Nam Cộng Hòa.
Ông là sĩ quan trừ bị trong quân đội Pháp. Lúc bị động viên ông là giáo sư, đã có bằng tiến sĩ Văn Chương (Docteur ès Lettres), bằng tiến sĩ Toán (Agrégé ès Math.) và bằng tiến sĩ Khoa Học (Agrégé ès Sciences). Ông được Tướng De Lattre de Tassigny gọi sang Việt Nam như một sĩ quan tùy viên với cấp bậc trung úy. Nhưng khi sang đến Việt Nam ông lại xin tình nguyện ra chỉ huy một đơn vị tác chiến để được ra mặt trận, và xin được phục vụ ở chiến trường Bắc Việt, lúc đó đang thật sôi động. Trong hai năm liền ông được thăng cấp 3 lần, toàn là tại mặt trận. Sau đó ông được gọi về chỉ huy Trường “đào tạo chỉ huy trưởng binh đoàn”, với cấp bậc trung tá, rồi đại tá (lúc bấy giờ được gọi nôm na là “cours tactiques”, tiền thân của trường Chỉ Huy và Tham Mưu của QLVNCH sau nầy). Hầu hết các tướng lãnh của VNCH chúng ta đều xuất thân từ trường nầy.
Ông là một sĩ quan rất bình dân, ăn mặc rất xuề xòa không giống như các sĩ quan Pháp khác, nhưng tất cả các sĩ quan khóa sinh đều rất mến phục ông sau vài ngày nhập trường vì tài giảng dạy của ông cũng như về đức tính của ông.
Sau đó Ông ra coi binh đoàn chiến thuật số 3, hoạt động ở Khu Nam, thuộc lực lượng bộ binh Bắc Việt (Groupement Tactique No 3/ Zone Sud/FTNV). Ông về nước năm 1954 với cấp bậc đại tá và thỉnh thoãng ông vẫn sang VN. Đầu năm 1975 ông có mặt thường trực tại VN và bị cộng sản trục xuất về Pháp khoản tháng 5/75.
Ông qua đời năm 1982, nhưng trước khi nhắm mắt ông vẫn còn nhớ đến VN, nên đã có trao lại cho trung tướng Trần văn Trung Chủ Tịch hội Cựu Chiến Sỉ tại Pháp, lá cờ Việt Nam Cộng Hòa, một kỹ vật rất quý mà ông đã được Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Bình Long trao tặng lúc Ông tháp tùng Tổng Thống Thiệu đáp trực thăng xuống An Lộc trong mùa hè đỏ lửa 1972.
Đặc biệt từ đầu năm l975 Ông Vanuxem đã thường xuyên có mặt tại Sài Gòn, nên ông đã phân tách rất chính xác về những sự kiện, những nguyên nhân và những hậu quả của sự việc “Việt Nam Cộng Hòa bị bức tử”, chẳng những đối với quốc gia Việt Nam mà còn đối với nước Pháp và cả Thế Giới nữa.
Những nhận xét rất tỷ mỉ và tế nhị, có lúc hơi tếu và lộ vẻ biếm nhẻ, của từng sự việc một mà ông đã đích thân mắt thấy tai nghe tại chỗ trong những ngày lịch sử nầy, khác hẳn những tiếng “khóc dở hơi” của “ngài” Mc Namara.
Văn ông chan chứa tình cảm rạt rào, khóc cho người lính chiến Việt Nam Cộng Hòa và xót thương cho số phận đau thương của người dân Miền Nam Việt Nam dưới ách thống trị và gông cùm của người Cộng Sản.
Chúng tôi cố gắng dịch sao cho được sát ý sát nghĩa chừng nào hay chừng nấy, miễn là không “phản ý hay phản nghĩa”, vì tiếng Pháp là tiếng ngoại quốc mà trình độ học vấn của tác giả cao hơn bậc thầy của chúng tôi, trong lúc chúng tôi thì ngoại ngữ còn quá thấp, văn thì luộm thuộm, chỉ mong sao lột được hết những lời hay ý đẹp của tác giả, những lời tâm tình của một người không phải chiến hữu mà như một chiến hữu thân thương, một người không hẳn là một đồng minh mà như một đồng minh trung tín… Hơn thế nữa, về mặt chánh trị và quân sự, đại tướng là một nhân vật thuộc đẳng cấp quốc tế, những nhận xét của ông rất chính xác, có tầm mức chiến lược, đôi lúc ngoài tầm hiểu biết nông cạn của chúng tôi.
Do vậy, xin quý anh chị em độc giả niệm tình thông cảm cho những sơ sót của chúng tôi. Chúng tôi sẵn sàng xin được đón nhận những sự góp ý, chỉ bảo và sửa chửa nếu có, để bản dịch được thêm phần đúng đắn và phong phú thêm.
Kính,
Mẹ Việt Nam ơi! Dân ta có tội tình gì?