Ngày xưa, lúc còn bé, người viết đã từng nghe những người lớn thường nói
với nhau câu: “Già đời còn mang tơi chữa lửa”.
Áo tơi, là một loại “áo” được “chằm” hay bện ra từ những chiếc lá tơi, lá
dừa, đem phơi khô, rồi chằm, bện thành những chiếc áo tơi. Thời ấy, ở các
vùng quê, vì nghèo, nên không có vật dụng gì khác, nên người dân quê đã
dùng những chiếc áo tơi này, để che mưa gió trong những vụ mùa cày, cấy,
gặt... Nhưng sau khi dùng, người nông phu phải đem treo ở trên cao, để trẻ
con không lấy xuống được, vì nếu sơ ý, chỉ cần một đốm lửa, thì những cọng
lá tơi, lá dừa sẽ bắt lửa từ chiếc áo tơi và cháy tiêu luôn hết cả thân
người.
Chính vì thế, câu: “Già đời còn mang tơi chữa lửa”, mà các cụ thường nói,
là để chỉ những tên già đời mà còn ngu. Vì quá ngu, mới mang chiếc áo tơi
mà đâm đầu vào đám cháy, để cuối cùng chẳng những không chữa cháy được, mà
chính mình phải bị thiêu thành tro bụi cùng đám cháy!
HT Thích Tâm Châu, là một trong những kẻ già đời còn mang tơi chữa lửa đó;
bởi ngày nay, chuyện “tự thiêu” của TT Thích Quảng Đức, mọi sự đã quá rõ
ràng, HT Thích Quảng Đức không hề “tự thiêu”, mà do người khác tưới xăng,
người khác đốt chết.
HT Thích Tâm Châu đâu có ngu, mà không biết một người tự tử, thì chính họ
phải tự cầm dây thắt và treo cổ, tự pha chế độc dược, tự bưng ly thuốc độc
để uống, tự nhảy xuống sông, tự tưới xăng lên người, tự quẹt lửa tự thiêu,
không hề có một kẻ khác trợ tử như trường hợp của TT Thích Quảng Đức đã bị
“Khối Ấn Quang” quyết định đem ra bức tử, có tổ chức hẳn hoi, ngay giữa
thanh thiên bạch nhật, trong vòng vây có tổ chức, với sự vô nhân tâm, vô
cảm của hàng trăm sư sãi của “khối Ấn Quang”; không cho bất cứ ai đến gần
để được cứu người !
Nên nhớ, ở các nước Âu-Mỹ, có rất nhiều trường hợp, những người bị bệnh
nan y, khoa học đã thúc thủ, và chính bệnh nhân đã tự tay viết, và tự
miệng nói ra những lời cầu xin các bác sĩ cho họ được chết. Thế nhưng, các
bác sĩ không cho họ chết, vì luật pháp không cho phép.
Như vậy, vụ án đốt sống TT Thích Quảng Đức, nếu ở các nước Âu-Mỹ, thì
“Khối Ấn Quang” phải bị đưa ra tòa án, để xét xử một cách nghiêm minh.
Nhưng tiếc rằng, Chính phủ Đệ nhất Việt Nam Cộng Hòa đã quá nhân đạo đối
với tội ác!
HT Thích Tâm Châu có đui mù đâu, mà không thấy ngọn lửa bắt đầu cháy từ
chỗ nào trên tấm nhục thân của TT Thích Quảng Đức.
HT Thích Tâm Châu chắc cũng là con người, lại từng “ở trong chăn”, thì làm
sao không biết đến những nỗi đau đớn cùng cực của người vợ yêu, của người
con trai quý của ông-bà HT Thích Quảng Đức, khi phải bị mất chồng, mất cha
trong ngọn “Lửa Từ Bi”, hay là ngọn lửa cuồng vọng của “Khối Ấn Quang”!
HT Thích Tâm Châu, đã bao nhiêu năm “tu” đạo, đã 94 tuổi, chắc chắn phải
lớn tuổi hơn cựu Đại đức Thích Huệ Nhật, thì làm sao có thể không khôn,
hay là ngu hơn cựu Đại đức Thích Huệ Nhật. Nhưng dù sao, thì HT Thích Tâm
Châu cũng nên đọc những dòng đã trích lại dưới đây:
“Cái chết tự nguyện là gì?
Những người tự thiêu cho đạo pháp:
Nguyễn
Huệ Nhật
“Tôi xin giới hạn trong
phạm vi hiểu biết của cá nhân mình, và những gì tôi viết sau đây cũng là
một số kinh nghiệm và nhận xét của riêng tôi, sau ba lần tưởng đã chết
nhưng nay tôi còn sống trong Ơn Cứu Rỗi của Thiên Chúa, nên xác tín hơn,
rộng mở hơn.
Người tự thiêu
đầu tiên trong thời kỳ Phật giáo đấu tranh chống lại kỳ thị tôn giáo dưới
thời chính phủ Ngô Đình Diệm là Hòa thượng Thích Quảng Đức. Ngài là một vị
tu sĩ bán thế xuất gia, nghĩa là có vợ con trước khi đi tu. Con ruột ngài
cũng là đệ tử nổi tiếng của ngài sau khi ngài hy sinh. Ngài chỉ nổi tiếng
sau khi hy sinh.
Cũng
như tất cả các vị thánh tăng đã nối tiếp tự thiêu cho Đạo Pháp, bản thân
Hòa Thượng Thích Quảng Đức không hề biết rằng kết quả tốt do sự hy sinh
của ngài chỉ là nhất thời từ 1-11-1963, còn hậu quả xấu do sự hy sinh của
ngài là lâu dài từ mùa hè 1966 đến nay. Vì sau khi chính phủ Ngô Đình Diệm
bị lật đổ, Phật giáo Việt Nam chỉ thắng thế nhất thời, để rồi càng bị CSVN
lợi dụng sâu sắc hơn, và đưa những cuộc đấu tranh kế tiếp đến ngày
30-4-1975, cho cộng sản Việt Nam lên cướp chính quyền.
Nhìn
lại quá trình, chỉ hai năm đầu sau khi chính phủ Ngô Đình Diệm sụp đổ, Hội
Phật Học VN đã trở thành GHPGVNTN nổi như cồn, nhưng đó là thời gian manh
nha đưa GHPGVNTN đến tình trạng suy đồi và phân rẽ ngay trên đỉnh cao thế
lực của họ. Năm 1966, GHPGVNTN chia rẽ thảm khốc giữa hai phe Việt Nam
Quốc Tự và Ấn Quang. Chưa bao giờ lịch sử Phật giáo Việt Nam có sự căm thù
nhau, phân rẽ nhau tệ hại như thế. Vụ đem bàn thờ Phật ra đường để đấu
tranh trong mùa hè 1966, là một bằng chứng suy tàn nhất của tinh thần và
tổ chức Phật giáo Việt Nam. Nếu tôi kể ra những bất đồng của các vị lãnh
đạo PG trong vụ Đem Phật Ra Đường, thì rất phiền. Những cuộc tranh giành
đẫm máu trong khuôn viên Việt Nam Quốc Tự cho đến nay vẫn còn giữ kín, trừ
vụ kéo sập dãy nhà do Đại đức Thích Đức Nghiệp xây lên sát lề đường Trần
Quốc Toản là không thể dấu diếm được. Tôi ngẫm nghĩ Thượng tọa Thích Trí
Quang chỉ là một mẹ mìn rất đắc lực của cộng sản Bắc Việt. Ông bắt cóc
niềm tin của đa số Phật tử, để biến họ thành phương tiện hữu hiệu nhất cho
cộng sản Bắc Việt vào xâm chiếm miền Nam, và ông đã cho cộng sản Bắc Việt
vắt chanh bỏ vỏ tất cả nhân, tài, vật lực do niềm tin ấy mà có. Khi công
việc bắt cóc ấy hoàn thành, mẹ mìn Thích Trí Quang ngồi im lặng rung đùi
và được cộng sản Việt Nam bảo vệ kỹ, không ai dám động một sợi lông chân
của ông.
Tôi
tin chắc rằng Hòa thượng Thích Quảng Đức đã không hình dung nổi hậu quả
tang thương về sau nầy, đối với Phật giáo nói riêng, và dân tộc nói chung,
qua sự hy sinh của ngài. Chính người con trai ruột của ngài, người đã trở
thành một vị Thượng tọa nổi
tiếng tại ngôi chùa của ngài để lại trên đường Trương Minh Giảng, đã sống
ba chìm bảy nổi mang nhiều tăm tiếng và cũng bị tù đày trong chế độ cộng
sản.
Lần
tự thiêu thứ nhất tại Sài Gòn là lần tôi hoàn toàn chờ đợi theo sự sắp xếp
và tổ chức của Ủy Ban Liên Phái, nhưng không thực hiện được, vì tình hình
sao đó.
Một
người khác là thầy Lưu Bổn đệ tử của Hòa Thượng T.M.H chùa TL, Huế, cũng
đã nhảy xuống giếng sâu tự tử tại chùa Phật giáo Đà Nẵng, vào mùa hè 1972,
sau khi bị nghi ngờ một chuyện xấu. Mười lăm phút trước khi nhảy xuống
giếng, thầy Lưu Bổn ngồi ăn trưa với tôi một cách lặng lẽ.
Một
người bạn khác của tôi tên T. An, cũng đi tu ở chùa Phổ Đà tại Đà Nẵng,
ông mở một trường Bồ Đề ở gần ga xe lửa Đà Nẵng, cũng đã tự thiêu vì một
chuyện riêng, nhưng sau đó được dư luận báo chí cho là tự thiêu vì ý nghĩa
lớn lao khác. Trong thế giới tôn giáo đã lâm lụy vào những cơ mưu chính
trị thời Việt Nam Cộng Hòa, một vài trường hợp các tu sĩ tự tử bằng cách
tự thiêu đã được gán cho những ý nghĩa cao cả “Ý nghĩa cao cả” ấy được áp
đặt cho mục đích khác, mà người tự thiêu không đặt ra, nhưng sau cùng
những người bà con của họ cũng được hưởng tiếng thơm “Thánh Tử Đạo”. Cũng
có nhiều vụ tự thiêu do ý định tự tử để giải quyết chuyện riêng, nhưng khi
thực hiện, họ lại nêu lý do thiêng liêng để che đậy chuyện bậy bạ. Hoặc là
người tự tử bằng cách tự thiêu xong rồi, sau đó mới được gán cho một ý
nghĩa thiêng liêng. Thời đó, nhiều vụ tự thiêu đã bị lạm dụng. Người tình
nguyện tự thiêu thì đông, nhưng người đáng được chấp nhận thì ít. Vì một
người có đời sống không sáng sủa, nếu được chấp nhận cho tự thiêu, sẽ có
nguy cơ làm mất niềm tin của nhiều người khác. Tất cả những người tình
nguyện tự thiêu đều là những người không sáng giá khi còn sống. Những
người sáng giá nghĩ rằng mình cần sống để làm việc có kết quả hơn.
Những
người nêu trên đều quen thân với tôi, nên tôi biết một số lý do tại sao họ
đã tự thiêu. Giống như những người thất tình, những thí sinh thi rớt,
những đứa con giận cha mẹ, những người bị thất bại làm ăn … Họ không còn
thiết sống nữa. Họ tìm đến cái chết để trốn chạy một thực tại bất đắc chí
bằng cái chết tự sát”.
Trên đây, là
những điều đã được cựu đại đức Thích Huệ Nhật viết ra, có những điều mà
nếu ai chưa được biết, thì bây giờ nên biết về TH Thích Quảng Đức. Không
phải những người cứ 94, hay 100 tuổi nói ra, là nói đúng với sự thật.
HT Thích Tâm
châu có biết tại sao, ngày xưa, vào năm 1966, chính HT Tâm Châu đã từng
“mang tiếng” là nhận năm mươi triệu đồng của cựu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, để
HT không ủng hộ Thích Trí Quang trong cuộc bạo loạn, để thành lập “Chính
phủ miền Trung” trong khi điều này chỉ có cựu Tướng Nguyễn Cao Kỳ và HT
Tâm Châu biết. Vậy thì, ai là người đã đưa tin này ra cho người khác
biết ?
Những điều này,
có rất ít người biết, cũng như trong cuộc bạo loạn bàn thờ Phật xuống
đường tại miền Trung, mùa Hè 1966. Đặc biệt, tại thành phố Đà Nẵng, người
ta cũng đã từng biết cựu Tướng Nguyễn Cao Kỳ đã chi ra hai mươi triệu
đồng, để ly gián
hệ phái Việt Nam Quốc Dân Đảng do cụ Vũ Hồng Khanh lãnh đạo và VNQDĐ Kỳ Bộ
Trung Việt do ông Nguyễn Đình Lương lãnh đạo. Nhưng rồi cuối cùng, “Khối
Ấn Quang” đã bắt hết các cán bộ của VNQDĐ của cả hai hệ phái đem giam bốn
mươi ngày trong chùa Phổ Đà, tức Phật học Viện Trung Phần, ở số 340, đường
Phan Châu Trinh, Đà Nẵng, là nơi được đặt “Tổng hành dinh Quân đoàn Vạn
Hạnh”, tức “Quân đoàn cách mạng Trần Hưng Đạo”, do Thích Minh Chiếu, với
cái chức Thiếu tá Tuyên úy Phật giáo Vùng I chiến thuật, đệ tử ruột của
Thích Đôn Hậu: Chánh đại diện miền Vạn Hạnh, tức miền Trung, làm “Tư
lệnh”.
Ngoài ra, còn
một vụ án bí mật khác, khi cựu Tướng Nguyễn Cao Kỳ đã hẹn gặp cựu Tướng
Nguyễn Chánh Thi tại Chu Lai; và khi Nguyễn Chánh Thi từ Sài Gòn ra Chu
Lai ngồi đợi, nhưng Tướng Nguyễn Cao Kỳ không bao giờ đến. Rồi sau đó, là vụ
ám sát, để giết chết một thư ký riêng của Thích Trí Quang, là nhà báo Vân
Sơn Phan Mỹ Trúc,
người đã từng bị ở tù tại lao Thừa Phủ, Huế, 1956, vì tội hoạt động cho
Cộng sản…
HT Thích Tâm
Châu nói: “tôi 94 tuổi, nhưng còn minh mẫn”, thì hãy cố nhớ lại vào thời
gian của năm 1966, để suy nghĩ, để hiểu những việc làm của cựu Tướng
Nguyễn Cao Kỳ… Còn bây giờ, HT Thích Tâm Châu đã trót “Về Nguồn” rồi, thì
không có con đường nào để trở ra biển trời mênh mông như ngày xưa được
nữa. Thôi thì chính HT Thích Tâm Châu đã muốn “tự thiêu” thì hãy để cho
ông ta “chết cháy” ra tro luôn, nên chẳng cần phải nhắc đến Thích Tâm Châu
làm gì, khi một con người, vì những lý do nào đó… mà đã tự đốt cháy hết
tất cả thanh danh của mình rồi !
“Đốn củi mười
năm, thiêu chỉ một giờ” hay “Già đời còn mang tơi chữa lửa”. Cả hai câu
này, đều hoàn toàn đúng với chính con người thật của HT Thích Tâm Châu là
vậy.
Hàn Giang
Trần Lệ Tuyền