Nghị quyết 36 thắng lớn (1)

Nghị quyết 36 thắng lớn (1)
Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất
(Lời nói đầu: Tiêu đề của bài viết là một câu nói khó nghe, nhưng chân thật. Nếu người Việt tỵ nạn chúng ta không thừa nhận sự thật, chúng ta lại sẽ mất trắng về tay bọn VGCS như chúng ta đã mất miền Nam. Chuyện này sẽ xẩy đến có lẽ chẳng bao lâu nữa. Thắng lợi Cờ Vàng lúc đó chẳng giúp ích gì cho chúng ta. Bởi vì thắng lợi đó chẳng qua chỉ là những quyết định hành chánh, chứ không phải là luật của nước Mỹ. Nó chỉ có tính chính trị mà không có tính cưỡng hành, và nhất là nó không đủ sức mạnh để ngăn chận những đợt sóng trở cờ đón gió xô tới. Vụ đài VNHN nên coi là một tiếng chuông cảnh báo, được coi là cuối cùng thì tốt nhất. Sau đây chúng tôi xin đi vào bài viết.)
Bà Bút Vàng ngôn: tên Nguyễn Phương Hùng nói xấu giáo sư Vinh: ergo hắn là cộng sản.
Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh phán: Tôi không nói anh (Nguyễn Phương Hùng) là CS, nhưng anh có những bài viết chứng tỏ anh là Việt gian.
Bà Bút Vàng
http://farm4.static.flickr.com/3294/2949511730_3418b4f9ca_o.jpg
Chu Tất Tiến
Còn nhà văn Chu Tất Tiến điểm mặt: Nam Nhân, Việt Thường luôn luôn đánh phá tất cả mọi người chống cộng, sure bọn này là CS. Đấy là vài ba điển hình tố cộng mà chúng tôi đọc được trên internet gần đây. Cả ba là những người có máu mặt trên báo chí, các diễn đàn, và trong cộng đồng. Những nhà chống cộng khác trong đám dân trên không chằng, dưới không rễ thì loạn trên các diễn đàn, không sao kể cho xiết. Thế nhưng, chuyện ông bà Dương Văn Hiệp, Lưu Lệ Ngọc, giám đốc của đài VNHN mời cán bộ tòa đại sứ VGCS tại Washington tới nhà ăn nhậu với cả đám nhân viên, bạn bè thì lại là chuyện bình thường, chả có con ma nào théc méc. May mà hai năm sau nhà báo Hồng Phúc mới khui ra. Giả như ông Hồng Phúc không ngứa miệng phun ra thì chuyện đã đi vào quên lãng. Các ông bà Ngô Ngọc Hùng, Dương Văn Hiệp, Lưu Lệ Ngọc vẫn nghiễm nhiên là các nhà chống cộng đầy thành tích. Chứ có ai rỗi hơi mà bới móc ra làm chi cho mệt xác, biết đâu còn mang họa vào thân. CS đặt tòa lãnh sự tại Houston, ai ai cũng nhoi nhoi phản đối. Các ông lãnh đạo chống cộng tại địa phương kêu gọi dân biểu tình trước một cái chợ. Đại thành công! Nghe đâu những 5 ngàn người. Biểu tình xong, ai về nhà nấy, thỏa mãn. Tự ái của đồng bào đã được vuốt ve: biểu tình những 5 ngàn người lận. Các nhà chống cộng lại ghi thêm được một thành tích hiển hách giữ làm credit để dùng cho sau này. Thằng CS vẫn cứ đặt tòa lãnh sự của chúng để tiện cấp chiếu khán cho đồng bào về nạp mãi lộ và du hí. Có sao đâu. Sự việc ồn lên một dạo, nhưng êm rồi. Lại đâu vào đấy: đường ta ta cứ đi, đường nó (VGCS) nó vẫn phăng phăng bước tới. Làm gì nhau đây! Chẳng lẽ đường lối hợp tác giai đoạn của nhà chống cộng Al. Hoàng với Việt Tân ép phê (effet) lẹ thế?
Hoạt cảnh chống cộng của chúng ta hiện nay đại khái là như vậy. Trước đây không có thế. Bây giờ thay đổi rồi. Người ta cho rằng đó là kết quả của Nghị Quyết 36 của VGCS. Ai tin cứ tin. Ai không tin thây kệ. Tự do mà! Dưới con mắt loạn thị của người viết thì quả thật nghị quyết 36 có vẻ đang thắng lớn. Nó thắng thế nào, thắng làm sao, và tại sao thắng, đó là những vấn đề chúng tôi muốn đem bàn đến ở đây.
Vài nét về Nghị Quyết 36
Phần lớn chúng ta có lẽ chỉ nghe nói Nghị Quyết 36 nhưng chưa thấy cái đồ quỉ này nó mặt ngang mũi dọc ra sao. Vâng, chính xác cái văn kiện này được gọi là Nghị Quyết 36/NQ-TW (Xin vắn tắt là NQ36) được Bộ CT đảng VGCS ban hành ngày 26-3-2004. Trước khi có NQ36, VGCS đã thử thời vận nhiều cách để nhử mồi người tỵ nạn ở nước ngoài. Nhiều tên trí thức ăn cơn quốc gia thờ ma CS như BS Bùi Kiện Tín ở Pháp, TS Phó Bá Long ở Canada (?) v.v. đã ra công khuyển mã giúp cho bọn VGCS, nhưng đều mang thất bại. Năm 1993, VGCS đã thử mở ra một cái gọi là Đại Hội Việt Kiều, Phó Bá Long xun xoe về tham dự có gởi kiến nghị xin VGCS bỏ chiếu khán cho Việt kiều về thăm nhà, dễ dãi việc mua nhà đất, và nhất là Long còn đề nghị VGCS ban lệnh đại xá cho tất cả mọi người bỏ nước ra đi tỵ nạn CS. Tội vạ gì mà đại xá đây, GS Long?
http://farm4.static.flickr.com/3451/3296764902_c856e0e91c.jpg
Phó Bá Long
Cha đẻ của NQ36 là Phan Diễn. Phan Diễn đứng hàng thứ 15 trong Bộ CT đảng CS, bí thư thành ủy Đà Nẵng, một tên tham nhũng có hạng. Diễn là con Phan Thanh, cháu nội Phan Khôi. Cụ Phan Khôi là một nhà văn hóa lớn chủ trương Nhân Văn Giai Phẩm chống đảng nên bị thanh trừng và bị cô lập cho đến chết. Nếu Trường Chinh đấu tố bố mẹ đẻ ra hắn không làm chúng ta ngạc nhiên, thì chúng ta cũng chẳng nên lấy làm lạ chuyện Phan Diễn hoàn toàn vô cảm đối với việc người ông của hắn bị bạc đãi và bị đầy ải cho đến khi xuống lỗ. Đó là kết quả trăm năm trồng người của tên cáo già Hồ Chí Minh. Phan Diễn không những đã dửng dưng trước việc đảng đầy đọa ông nội hắn mà còn cúc cung tận tụy phục vụ CS bằng cách cuối đời đẻ ra cái NQ36 bất nhân mà chúng tôi đang nói đây.
NQ36 gồm có 4 phần. Phần cuối cùng phân công các cơ quan có trách nhiệm thì hành nghị quyết. Các phần 1 và 2 dành tâng bốc, vuốt ve, khuyến dụ, và hứa hẹn đủ điều với cộng đồng người tỵ nạn. Qua nghị quyết, VGCS công nhận người tỵ nạn, mà chúng đổi danh xưng gọi là người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài, thành công về nhiều mặt, có tiềm lực kinh tế lớn, có tinh thần yêu nước, gắn bó với quê hương. Chúng xác nhận có một số đã trở về đầu hàng VGCS và đóng góp cho chúng. Nhưng đồng thời chúng cũng không quên cảnh cáo rằng nhiều người vẫn còn ra sức chống phá CS. Tuy thế chúng lại nói đảng và Nhà nước luôn luôn coi cộng đồng người tỵ nạn là một bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam, nên cần phải được săn sóc và giứp đỡ, nhất là trong các lãnh vực phát thanh, truyền hình và các nhu cầu về văn hóa. Chúng kêu gọi xoá bỏ mọi mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử do quá khứ hay thành phần giai cấp tạo ra, xây dựng tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai. Chúng hứa hẹn nhà nước sẽ thỏa thuận với các nước hữu quan về khuôn khổ pháp lý để đồng bào ổn định cuộc sống và bảo vệ quyền lợi chính đáng của cộng đồng ngưới tỵ nạn theo luật pháp, công ước và thông lệ quốc tế. Chúng khuyến khích người tỵ nạn mau chóng hội nhập để làm ăn, nêu cao tinh thần tự trọng và tự hào dân tộc, giữ gìn tiếng Việt, bản sắc văn hoá và truyền thống dân tộc Việt Nam, đoàn kết, đùm bọc, thương yêu nhau, giữ mối quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương, góp phần tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị giữa bà con sinh sống với trong nước, tùy theo khả năng và điều kiện của mỗi người, góp phần xây dựng quê hương đất nước, đặc biệt nhấn mạnh là chủ động đấu tranh với các biểu hiện cố tình đi ngược lại lợi ích chung cuả dân tộc, nghĩa đúng của lối nói này là chống lại VGCS.
Phần 3 mới là chủ yếu của nghị quyết, gồm có các điểm sau đây:
1. VGCS sẽ tiến hành đàm phán và ký kết các thỏa thuận cần thiết với các nước, trong đó có các hiệp định lãnh sự, hiệp định tư pháp, bảo vệ lợi ích của người tỵ nạn, giải quyết các yêu cầu của người tỵ nạn liên quan đến vấn đề quốc tịch. Hứa tạo điều kiện để đồng bào tỵ nạn về thăm quê hương, thân nhân. Cụ thể hóa và hoàn thiện các quy định về xuất nhập cảnh, cư trú, đi lại ở trong nước của người tỵ nạn, thông thoáng và đơn giản hóa các thủ tục. Giải quyết nhanh chóng thủ tục cho người tỵ nạn hồi hương hoặc về làm ăn, sinh sống có thời hạn ở trong nước. Tiếp tục giải quyết những vấn đề tồn tại về mua nhà ở trong nước, thừa kế, hôn nhân gia đình, nhận con nuôi ... liên quan đến người tỵ nạn. Dành cho người tỵ nạn giá dịch vụ như công dân trong nước.
2. Hoàn chỉnh và xây dựng mới hệ thống chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài, phát huy sự đóng góp của trí thức hải ngoại vào công cuộc phát triển đất nước. Xây dựng chế độ đãi ngộ đối với chuyên gia, trí thức hải ngoại có trình độ chuyên môn cao, có khả năng tư vấn về quản lý, điều hành, chuyển giao công nghệ, kỹ thuật cao, góp phần phát triển nền văn hóa, nghệ thuật trong nước. Mở rộng hợp tác, thu hút sử dụng chuyên gia, trí thức hải ngoại tham gia các công việc ở trong nước, làm việc cho các chương trình, dự án hợp tác đa phương và song phương của Việt Nam với nước ngoài hoặc trong các tổ chức quốc tế có chỉ tiêu dành cho người Việt Nam và tư vấn trong các quan hệ giữa Việt Nam với đối tác nước ngoài.

3. Hoàn chỉnh và xây dựng mới các chính sách thu hút người tỵ nạn hoạt động đầu tư, kinh doanh ở trong nước. Mở rộng và tạo thuận lợi hơn nữa chính sách kiều hối. Phát huy khả năng của người tỵ nạn làm dịch vụ, thiết lập và mở rộng phong trào tiêu thụ hàng hóa của VN.

4. Đổi mới và đa dạng hóa các phương thức vận động, các hình thức tập hợp với mục đích khuyến khích những hoạt động hướng về quê hương của người tỵ nạn, nhất là của thế hệ trẻ. Chủ động mở rộng tiếp xúc với cộng đồng người tỵ nạn, kể cả với những người mà VGCS coi là còn có định kiến, mặc cảm với chúng.

5. Tích cực đầu tư cho chương trình dạy và học tiếng Việt cho người tỵ nạn, nhất là cho thế hệ trẻ. Xây dựng và hoàn chỉnh sách giáo khoa tiếng Việt cho người tỵ nạn, cải tiến các chương trình dạy tiếng Việt trên vô tuyến truyền hình, đài phát thanh và qua mạng Internet. Cử giáo viên dạy tiếng Việt tới những nơi có thể để giúp bà con học tiếng Việt. Tổ chức trại hè nói tiếng Việt cho thanh, thiếu niên tỵ nạn. Tổ chức cho các đoàn nghệ thuật, nhất là các đoàn nghệ thuật dân tộc ra nước ngoài biểu diễn phục vụ cộng đồng. Tạo điều kiện cho các nghệ sĩ tỵ nạn về nước biểu diễn và tham gia các đoàn VN đi biểu diễn quốc tế. Thường xuyên tổ chức các chương trình giao lưu văn hóa, văn học, nghệ thuật, triển lãm, hội thảo, du lịch về cội nguồn, tức là về phục vụ cho VGCS.

6. Đổi mới mạnh mẽ và toàn diện công tác thông tin, tuyên truyền để bịt mắt người tỵ nạn về tình hình đất nước và chính sách của đảng CS. Đầu tư cho các chương trình dành cho người tỵ nạn của các đài phát thanh, truyền hình và Internet. Chú trọng đổi mới nội dung, hình thức. Hỗ trợ việc ra báo viết, mở đài phát thanh, truyền hình ở ngoài nước. Xây dựng thư viện trên mạng Internet để phục vụ người tỵ nạn. Hỗ trợ tiền bạc để vận chuyển và đơn giản hóa thủ tục đối với việc gửi sách báo, văn hóa phẩm ra hải ngoại để phục vụ cộng đồng tỵ nạn.

7. Hoàn chỉnh chính sách khen thưởng đối với người tỵ nạn có công đối với CS. Đồng thời có biện pháp đấu tranh phù hợp (tức là tiêu diệt) với những người có biểu hiện cố tình đi ngược lại với VGCS.

8. Củng cố và phát triển các tổ chức xã hội làm công tác vận động người tỵ nạn. Các cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài có trách nhiệm coi công tác đối với người tỵ nạn là một nhiệm vụ chính trị quan trọng. Chủ động tăng cường tiếp xúc, vận động, truyền bá và phổ biến chủ trương, chính sách của đảng VGCS.

9. Tăng cường cán bộ chuyên trách về công tác đối với người tỵ nạn tại cơ quan đại diện ngoại giao của VGCS ở những nơi có đông người tỵ nạn sinh sống. Một số bộ, ngành và một số tỉnh, thành phố có quan hệ nhiều với người tỵ nạn cần có bộ phận giúp cơ quan lãnh đạo trong công tác đối với người tỵ nạn. Bổ sung kinh phí cho công tác này.

Xét về mặt thực hành, các chính sách nêu trên có tác dụng hai mặt. Một là nó tạo ra con đường cho CS xâm nhập và trà trộn vào cộng đồng hầu lũng đoạn, chinh phục, và nhuộm đỏ khối người tỵ nạn chúng ta. Và hai là nó cung cấp cho người tỵ nạn một thứ vũ khí rất lợi hại để chúng ta tự đánh đấm, chém giết nhau không cần đến bàn tay của bọn VGCS. Tác dụng gây lũng đoạn này báo chí quen gọi là “chụp mũ” hay là “đội nón cối”. Sống trong một cộng đồng chống cộng mạnh, kẻ bị đội nón cối rất khó được tín cẩn. Hậu quả thê thảm của việc đội nón cối lên đầu nhau là người ta coi nhau là kẻ thù cần phải tiêu diệt còn hơn là CS. Rất nhiều người nhân danh chống cộng để đội nón cối lên đầu người khác, mặc dầu thời đại này đối với VGCS, dép râu, nón cối là thứ trang bị cá nhân cho các cán bộ CS đã hoàn toàn lỗi thời rồi. Có thể nói đa số những người tố cáo và chụp mũ kẻ khác đều mang tinh thần phe phái và định kiến: kẻ không theo chúng tôi và hành động khác chúng tôi tất nhiên là CS. Hà mỗ này cũng đã từng là nạn nhân của việc bị úp chụp cái nón cối lên đầu, nên bây giờ cứ như con chim bị ná vậy. Ngay cái tựa đề của bài viết này chưa biết chừng cũng có thể có kẻ vin vào đó la toáng lên rằng chúng tôi ca tụng CS hoặc làm lợi cho CS. Nhưng bất chấp, chúng tôi viết trong tinh thần tự kiểm để biết mình, biết người. Thế thôi. Chúng tôi không viết theo lối xảo ngôn của một số nhà chống cộng hiện nay để lừa bịp và ru ngủ quần chúng. Có kẻ viết rằng CS đang dẫy chết. Người khác lại bảo Hànội đang hoảng lên vì đảng đang tan rã. Chừng nào thì VGCS mới dẫy chết? Nó dẫy chết nhưng nó đang sắp nuốt sống cộng đồng tỵ nạn rồi đấy. Mở banh mắt ra mà nhìn. Nó tan rã ư? Một năm có được mấy đứa phải trả thẻ đảng vì bị đào thải, so với hàng ngàn hàng vạn đứa khác đạp lên nhau để mong được vào đảng. Đó là sự thực. Hãy lương thiện với đồng bào. Hãy nói lên sự thật cho đồng bào nghe. Đừng phỉnh gạt, dấu giếm, lừa bịp, tội nghiệp đồng bào. Với một cái nhìn lương thiện thì NQ36 đang thành công lớn cả về hậu quả xâm nhập lẫn tác dụng gây phân hóa trong cộng đồng.
Hậu quả của xâm nhập
Có ai trong chúng ta còn nghi ngờ việc VGCS len lỏi xâm nhập vào hàng ngũ người tỵ nạn không? Chắc chắn là không, mặc dầu chúng ta chưa bao giờ bắt được tại trận một tên VGCS nào hết. Nhưng chúng ta tin và điều tin tưởng của chúng ta là thật, chỉ đơn giản dựa trên sự thật lịch sử là ngày xưa chúng ta có cả một chế độ vững chắc, một quân đội hùng mạnh, cùng với nhiều cơ quan an ninh dầy đặc mà còn có những tên VGCS trà trộn vào ở hẳn trong dinh Độc Lập được, thì bây giờ trong một cộng đồng phân hóa như hiện nay, VGCS đi vào sống giữa chúng ta là chuyện quá dễ dàng. Chúng có thể là du học sinh, là cán bộ đi tu nghiệp, là thương gia đi khảo sát thị trường, là người di tản buồn, là thuyền nhân, là diện ODP, diện con lai, diện bảo lãnh, thậm chí cả diện HO (lao) nữa. Nói tắt một câu, cán bộ CS len lỏi vào sống trong cộng đồng là điều không còn gì phải thắc mắc. Chúng ta không căn cứ vào đâu được để xác định tên A, tên B là VGCS. Nhưng nhìn vào một số lãnh vực sinh hoạt hàng ngày trong cộng đồng thì thấy rõ là có VGCS hiện diện giữa chúng ta thật, và ảnh hưởng của chúng đang mỗi ngày mỗi lớn dần. Sau đây chúng tôi xin nêu lên một số hiện tương trong các lãnh vực sinh hoạt trong cộng đồng tỵ nạn chúng ta để mọi người thấy rằng VGCS đã xâm nhập vào trong cộng đồng đến mức nào rồi.
1. Làm ăn thương mại
Trước kia không người tỵ nạn nào dám hở miệng nói ra là họ có dính líu làm ăn buôn bán với CS. Nhưng bây giờ, nhiều con buôn tỵ nạn công khai giao dịch với cán bộ CS không cần giấu diếm. Chúng ngang nhiên đến dự tiệc chiêu đãi của Nguyễn Minh Triết, của Nguyễn Tấn Dũng. Chúng mời cán bộ CS về nhà ăn nhậu mà chẳng thèm sợ ai đàm tiếu. Còn hơn thế nữa, bọn cán bộ trong nước dám công khai tạo mãi các khu thương mại trên đất Mỹ ngay tại khu vực đông người tỵ nạn để chúng ta làm giầu cho chúng. Chẳng còn ai nghi ngờ về chuyện bọn mafia CS mua những cơ sở thương mại và dịch vụ tại hải ngoại để kinh doanh, hoặc do con cái của chúng đang ở ngoại quốc đứng tên, hoặc do người tỵ nạn là bà con đứng tên dùm. Có trường hợp được đươc nhận diên, nhưng nhiều trường hợp khác còn được giấu kín. Người tỵ nạn đem tiền về VN tiêu xài hay gởi tiền về trong nước dưới nhiều hình thức. Tiền này chui vào túi các cán bộ CS. Đồng tiền đó lại được bọn tư bản đỏ đem ra nước ngoài kinh doanh buôn bán. Đây là một chuyến đi khứ hồi của đồng dollar Mỹ. Thử hỏi xem có ai trong chúng ta coi đó là một thách đố không? VGCS kêu gọi người tỵ nạn đem tiền về đầu tư, nhưng chính chúng lại đi đầu tư ở ngước ngoài. Sự thể cho thấy là một mặt bọn VGCS không còn tin tưởng vào tương lai của chế độ, nhưng mặt khác chúng đạt được thành công trong việc biến khối người tỵ nạn thành những kẻ làm giầu cho chúng. Người tỵ nạn tự nhiên trở thành những con bò cho bọn mafia CS vắt sữa ngay trong những cái chuồng mà đồng bào tạo dựng nên. Lợi nhuận do việc đầu tư này VGCS dùng để tài trợ cho các hoạt động đánh phá người tỵ nạn, một phần chúng nuôi bọn chống cộng cò mồi ở hải ngoại. Mối nhục lớn cho cộng đồng là các nhà chống cộng của chúng ta cứ mỗi khi hoạt động lại phải ngửa tay xin tiền từ các tên VGCS hoặc những kẻ làm ăn với chúng. Nếu bỏ chút ít tiền bạc ra mướn lũ cò mồi chống cộng cho vui thì tại sao chúng không làm. Chúng có thiệt hại gì đâu. Cuộc đấu tranh chống cộng vì có lũ cò mồi đã trở thành trò hề lố bịch. Lãnh tiền của CS để chống cộng. Tiếu lâm thật, nhưng lại là thực tại muôn thuở.
2. Văn hóa, văn học
Sách báo tuyên truyền của VGCS bầy công khai trong các tiệm sách, thư viện, những nơi có đông người tỵ nạn. Các cuộc trao đổi giáo sự, sinh viên diễn ra hầu như thường xuyên giữa các đại học trong và ngoài nước. Con em người tỵ nạn về trong nước học hỏi được cái gì từ đỉnh cao trí tuệ VGCS? Hiện tượng giao lưu văn hóa qua cái gọi là hội thảo chuyên đề của các nhà trí thức trong và ngoài nước cũng đã thấy lai rai xẩy ra. Điều đáng ngạc nhiên là các nhà trí thức tại hải ngoại lại không hề nghĩ là mình đang tự chui vào cái tròng hoà hợp hòa giải của VGCS. Bằng cấp cao nhưng trí đoản của bọn school smart (mọt sách) là như thế. Thực tế đang diễn ra, đám khoa bảng thường lại là những kẻ có tinh thần chủ bại và đầu hàng trước nhất. Người bình dân về VN thăm nhà nhưng tinh thần chống cộng vẫn quyết liệt. Trái lại bọn trí thức sẵn sàng HHHG với VGCS dưới các chiêu bài mầu mè. Ai là người chịu trách nhiệm để cho các loại văn hóa phẩm và tài liệu tuyên truyền xâm nhập. Người bình dân bận làm ăn rất ít đọc sách. Tuổi trẻ trình độ Việt ngữ đủ đâu vào đâu mà đọc tiếng Việt. Vậy thì ai vào đây, ai thích đọc và ai cần đọc sách của CS?
3. Tổ chức, đoàn thể
Cán bộ CS xâm nhập để lũng đoạn, làm ung thối, và phân hóa các đoàn thể, tổ chức của người quốc gia là chuyện xưa như trái đất rồi. Trước năm 1975, CS len lỏi trà trộn vào quân đội, cảnh sát, đảng phái, báo chí, cả đến các tôn giáo bằng đủ mọi hình thức. Ngày nay cũng sách đó thôi. Không đoàn thể nào, tổ chức nào, cộng đồng nào không bị chia năm sẻ bẩy do CS và tay sai xâm nhập phá hoại. Lạ lùng thay, nhóm nào cũng có người theo, người ủng hộ. Rõ ràng là đồng bào không có khả năng phân biệt được ai là CS, ai quốc gia, ai chống cộng thiệt, ai chống cộng cuội, mà chỉ a dua theo cảm tính. Ai là kẻ đứng sau lưng để phá nát các công đồng, đoàn thể? Không ai cả, mà chỉ toàn thấy rặt là những nhà chống cộng rất hăng say và to tiếng. Nếu cứ tính công sức những nhà chống cộng này đổ ra cho công cuộc chống cộng thì chắc chắn bọn CS nằm vùng đã không còn đất sống, thậm chí cái chế độ của chúng ở trong nước cũng đã bị tiêu ma lâu rồi. Nhưng kết quả ngược lại, CS càng ngày càng xâm nhập sâu hơn vào các cộng đồng đủ mọi ngành nghề, mọi sinh hoạt, và càng ngày chúng càng tung hoành trắng trợn hơn, mọi người đều thấy nhưng không làm gì được, bởi vì có nhiều người theo chúng. Người nặng đầu óc mê tín thì cho rằng NQ36 là một thứ bùa ngải rất linh. Nó có sức trấn áp mọi phương pháp chống lại nó. Nhưng người không tin vào bùa ngải quyết đoán rằng không có bùa ngải gì cả, chẳng qua là tại bọn VGCS học mót cái bí quyết quốc truyền của tổ phụ Washington của nước Mỹ thôi. Bí quyết này đã được chứng minh là cực kỳ hiệu nghiệm. Nó có thể đạp đổ những thần tượng cao ngạo nhất. Nó ngồi một chỗ mà với tay ra tận ngàn dặm giết chết lãnh tụ của một nước khác dễ như chơi. Nó còn có khả năng như một nhà ảo thuật đại tài, làm biến mất một quốc gia khỏi bản đồ thế giới. VGCS có tiền rừng bạc bể lại nắm được bí quyết này trong tay, hèn chi mà cộng đồng tỵ nạn không rã như vôi vữa gặp mưa.
4. Từ thiện, bác ái
Đây là mặt NQ36 xâm nhập mà người tỵ nạn khó đối phó nhất. Trước những thiên tai bão lụt và những khó khăn thiếu thốn của đồng bào trong nước, nếu chúng ta bỏ mặc thì chính chúng ta tự cảm thấy nhẫn tâm. Nhưng đã có quá nhiều kinh nghiệm cho thấy lòng bác ái của người tỵ nạn đã bị lợi dụng quá đáng. Có thể nói không có đồng tiền nào của chúng ta bỏ ra cứu giúp đồng bào nghèo trong nước mà không bị chia năm sẻ bẩy, đến được tay đồng bào thì ít, chui vào túi bọn cán bộ thì nhiều. Đấy là chưa kể gặp phải bọn lưu manh lấy công việc từ thiện như một nghề sinh sống. Tình trạng này vô tình biến nhiều người vốn có lòng hảo tâm trở thành ích kỷ, và bọn tay sai CS đội lốt làm từ thiện mặc sức lộng hành.
5. Văn nghệ và truyền thông
Phải nói tác hại lớn nhất mà NQ36 đưa đến là việc san bằng lằn ranh quốc cộng trong lãnh vực văn nghệ và truyền thông. Về văn nghệ, như chúng ta thấy hiện nay, ca sĩ trong nưóc hoàn toàn thoải mái khi ra hát tại hải ngoại, nếu không mốn nói là còn được nâng niu chiều chuộng rất mực nữa là khác. Đổi lại, ca sĩ hải ngoại về trình diễn trong nước cũng được đón tiếp niềm nở. Sự khác biệt ở chỗ là ca sĩ hải ngoại trở về hầu như không em nào không nói vài cầu bợ đỡ CS để lấy lòng. Hèn và đê tiện. Xướng ca vô loài, người xưa đánh gia không sai. Trong khi đó bọn con hát trong nước ra lại thường kênh kiệu lên mặt. Có đứa còn lớn lối đe dọa chôn sống cộng đồng tỵ nạn. Vô giáo dục. Cũng lại là xướng ca vô loài nữa. Một đứa hèn vì sợ bóng sợ gió, một đứa mất dậy với tâm lý đắc thắng cho thấy sự hiệu lực của tác dụng đồng hóa trong lãnh vực ca nhạc tới mức nào.
Đồng hóa là bước kế tiếp chủ yếu sau bước xâm nhập. Đồng hóa cũng có nghĩa là hòa hợp hòa giải (HHHG), nhưng nó gỡ bỏ được cái rào cản ý thức thệ của người Việt hải ngoại một cách tự nhiên và êm thấm hơn. Ban đầu người tỵ nạn còn chống các con hát từ trong nước ra, nhưng dần dần nhiều người đã không còn muốn chống vì ghiền giọng rên của bọn con hát trong nước đến nỗi không nghe nhớ chịu không nổi. Các trung tâm băng nhạc và các tay cai thầu văn nghệ biết rất rõ tâm lý đó nên đã mặc tình thao túng.Bọn này rất hăng hái vinh danh QLVNCH nhưng lại âm thầm làm công cụ của NQ36. VGCS không đứng ra làm công việc hòa hợp này mà để cho người tỵ nạn tự làm lấy qua trung gian các trung tâm băng nhạc và bọn cai thầu văn nghệ. Chính sách dùng người của địch để thôn tính và cai trị địch đã có từ thời Triệu Đà xâm lăng Âu Lạc của Thục An Dương Vương, được gọi là “Dĩ di công di”. Hiện nay bọn Tầu cộng cũng áp dụng chính sách Dĩ di công di để xâm lăng nước ta.
Chính sách Dĩ di công di càng trở nên hiệu nghiệm khi VGCS dùng văn nghệ tỵ nạn, nói chung là nền ca nhạc thời chinh chiến để hội nhập người tỵ nạn với CS một cách rất tài tình mà ít người nhìn ra. Thật vậy, cuộc chiến đấu tự vệ của nhân dân miền Nam sở dĩ còn được lưu hương cho đến ngày nay ngoài việc nó có chính nghĩa, mà còn đặc biệt nhờ tính chất vừa bi hùng vừa lãng mạn của nó nữa. Nói chiến tranh mà lãng mạn thì có lẽ là nghịch lý. Nhưng đúng chứ không sai. Bóng dáng người lính chiến đậm nét phong sương nhưng kiêu hùng đã một thời là mơ ước của các cô gái miền Nam. Người lính chiến trở thành một thứ thần tượng trong trái tim của phần lớn thiếu nữ trẻ. Thật vậy, không có gì đẹp bằng hình ảnh một chàng trai lãng tử vừa ôm súng gác vừa làm thơ, giết địch xong là ngồi xuống viết thư tình, trong giao thông hào vẫn kể chuyện tình sử cho nhau nghe, về đến doanh trại là ba chân bốn cẳng dọt đi thăm người yêu … Trên thế gian này không có thứ lính tráng nào kiêu hùng và lãng mạn đến như thế. Và tất nhiên cũng không có cuộc chiến nào tàn khốc nhưng lại đẹp và nên thơ như thế. Nét đẹp đó chỉ tìm thấy trong cuộc chiến đấu chống CS xâm lược của nhân dân miền Nam được diễn tả qua hàng ngàn ca khúc rất mê hoặc. Những giá trị văn học nghệ thuật này đã trỏ thành bất tử, và sẽ còn tồn tại và lưu truyền lại từ thế hệ này qua thế hệ khác, từ đời nọ qua đời kia, thời gian chắc chắn không thể nào bôi xóa được. VGCS biết rất rõ điều đó. Chúng muốn xóa đi nhưng không xóa nổi nên đành phải thả lỏng cái thứ văn nghệ “phản động” này với ý đồ tương kế tựu kế để chinh phục người tỵ nạn. Đó là lý do tại sao có chuyện ca sĩ vẹm cũng hát nhạc lính trên những sân khấu hải ngoại, chỉ trừ những ca khúc mang tính chiến đấu cao và quá rõ rệt. Ngày nay, những ca khúc thời chinh chiến bị trộn lẫn với loại nhạc “mì ăn liền” đang thịnh hành tại hải ngoại và được biết trong nước cũng thế. Nó vừa trở thành cái cần câu cơm cho bọn con buôn văn nghệ (và cả cho lũ VGCS nữa), đồng thời còn là phương sách rất tự nhiên và hữu hiệu để đồng hóa người tỵ nạn. Hát nhạc lính dể vinh danh QLVNCH thì ai bắt bẻ và chống đối được. Nhưng điều trớ trêu là người ca sĩ mới về nước hát ca tụng CS, vừa trở ra lại hát vinh danh người lính VNCH. Người quân nhân QLVNCH cần bọn thợ hát vô luân này vinh danh sao? Điều bất nhân không thể tha thứ được là có trung tâm băng nhạc của người tỵ nạn hoặc cai thầu văn nghệ đã tự ý sửa lời của một số ca khúc để được VGCS chấp nhận cho hát.
Truyền thông cũng giống như văn nghệ. Có thể nói truyền thông cũng là lãnh vực xâm nhập thành công nhất của NQ36. Rất nhiều người cho rằng VGCS đã mua được hầu hết các cơ quan truyền thông của người Việt tỵ nạn. Cũng không sai lắm. Một số chương trình phát thanh và báo chí lấy lý do chống Tầu cộng, công khai kêu gọi người tỵ nạn hòa hợp hòa giải với VGCS. Điều lo ngại này có cơ sở dựa trên hai lý do. Thứ nhất là vì cái bụng. Thực tế là rất ít có tờ báo nào hoặc đài phát thanh nào tự trang trải được chi phí nhờ vào quảng cáo. Ở Mỹ, tiền mướn đài tính theo giá Mỹ, trong khi quảng cáo tính theo giá VN. Nhân viên, biên tập viên, xướng ngôn viên thường phải sinh sống bằng nghề khác. Nhiều người làm truyền thông không lương vì yêu nghề. Thực trạng đó bắt buộc người chủ đài phải nghĩ đến chuyện kiếm tiền bằng cách khác để nuôi sống đài, và nhất là nuôi sống bản thân và gia đình. Việc họ sa vào tay bọn VGCS hay những thế lực đen tối khác là điều dễ hiểu. Người Mỹ nói đúng, kẻ nắm túi tiền, người đó điều khiển. Lý tưởng này, lý tưởng nọ đành phải gác qua một bên. Thứ hai là ỷ vào cái lá chắn tự do. Ở các nước phương Tây, nhất là tại Hoa Kỳ, tự do ngôn luận và tự do thông tin thường được coi là vô giới hạn, được luật pháp bảo vệ. Sự lạm dụng tự do quá trớn là cánh cửa lớn cho CS xâm nhập và những con buôn trong ngành truyền thông ruớc CS vào. Chúng ta thấy rất rõ nhưng đành chịu bất lực, không làm gì được.
Trên đây chỉ là một số khía cạnh trong đời sống hàng ngày của người tỵ nạn mà bọn VGCS đã thọc bàn tay vào một cách rõ rệt qua NQ36. Còn rất nhiều mặt khác chưa dám quyết đoán, nhưng đã có những dấu hiệu đáng nghi ngờ. Chắc chắn thời gian sẽ trả lời.
(còn tiếp)
Tác dụng gây phân hóa
Điều đáng lo ngại nhất cho công cuộc chống cộng là cái nón cối, biểu tương của NQ36, đã trở thành một thứ vũ khí giết người rất nguy hiểm trong cộng đồng chúng ta. Một người nào đó không phải là CS bị đội cái nón cối lên đầu là chết bỏ mẹ rồi. Dư luận thiếu hiểu biết cứ thế mà đâm, chém, bắn, giết cách nào tùy ý. Sự thật không phủ nhận được là nạn chụp nón cối lên đầu nhau đã trở thành loạn. Tình trạng này càng ngày càng làm phân hóa cộng đồng, làm chán nản tất cả mọi người có thiện chí, và tất nhiên chỉ có VGCS được hưởng lợi. Có trường hợp kẻ bị đội nón cối là CS thiệt. Nhưng cũng chắc chắn có trường hợp sai. Sai không ít. Có người than đây là cuộc chiến phe mình đánh phe ta. Cũng có phần đúng. VGCS giống như kẻ đứng ngoài, thản nhiên. Chúng không trực tiếp nhúng tay vào mà chỉ khoanh tay đứng nhìn chúng ta đấu đá nhau như người La Mã xưa xem giác đấu tại hí trường Colosseum. Thật sự là như thế.
Tác dụng của NQ36 xem ra đã định hướng được đường lối chống cộng của không ít các thành phần trong cộng đồng tỵ nạn tại hải ngoại. Kể từ khi có NQ36, cộng đồng tỵ nạn đã hết còn thống nhất ý chí, thống nhất hành động, thống nhất lập trường và đường lối. Hiệu lực của Nghị Quyết là nó biến đổi khuynh hướng chống cộng thành chống đối lẫn nhau trong cộng đồng. Về điểm này hiện thấy có 3 khuynh hướng khá rõ rệt: chống theo cảm tính, chống theo phe cánh, và chống vì cảm thấy bất lực.
1. Chống theo cảm tính
Khuynh hướng chống cộng theo cảm tính làm phát sinh ra tinh thần suy tôn lãnh tụ. Sau khi TT Ngô Đình Diệm bị bọn phản tướng giết chết, đất nước không còn lãnh đạo. Các lãnh tụ đảng phái, những người chống đối TT Diệm đã có cơ hội cầm cờ trong tay nhưng đều đã không biết phất. Sự thể chứng minh họ rất dở về chính trị nhưng lại muốn làm lớn. Kết quả là họ mất niềm tin của quần chúng. Khi đã hết tin vào các lãnh tụ chính trị, người dân đi tìm sự lãnh đạo chính trị ở tôn giáo. Tìm được rồi, họ biến lãnh đạo tôn giáo thành thần tượng, và chính xác hơn là taboo, ai dám đụng đến sẽ bị chụp ngay cái nón cối lên đầu.
Việc đi tìm minh chủ là điều tốt. Nhưng về mặt chính trị, nâng con người lên hàng thần tượng và biến thành taboo thì không nên. Một khi thần tượng chỉ là một khúc gỗ rỗng ruột thì bàn thờ hương hoa bánh trái sẽ trở thành nơi cho dán chuột đến tung hoành. Thực trạng đất nước cho thấy tôn giáo lãnh đạo chính trị đã làm đất nước khốn đốn thêm. Sự thật khách quan sờ sờ chẳng mấy ai tin mà chỉ nhắm mắt tin chết vào những gì họ cảm nhận là đúng. Dân chúng và cả bọn chính khách xôi thịt chạy theo cha, sư, không cần biết lập trường và đường lối ra sao, thí dụ như:
* HT Thích Quảng Độ - HT Thích Quảng Độ chống bọn lãnh đạo Hànội thì rõ ràng rồi, nhưng nói rằng ngài chống cộng sản thì cần phải xét lại. Bởi vì, nếu HT Quảng Độ chống CS thiệt thì ngài đã không yêu cầu VGCS triệu tập và chủ sự một hội nghị gồm cả người tỵ nạn lẫn bọn VGCS. Đây là một hình thức HHHG với VGCS. Sự thể có thể hiểu là HT Quảng Độ đã mặc nhiên thừa nhận cái cơ chế gọi là đảng và nhà nước VGCS. Như thế sao bảo là HT Quảng Độ chống cộng. Việc xưa kia cũng thế. Chế độ Cộng Hòa tại miền Nam dù thế nào cũng là bước khởi đầu tốt thực thi các quyền tự do dân chủ cho người dân VN. Nếu các Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu có phạm sai lầm thì cũng chỉ nên truất phế đi thôi, tại sao HT lại tiếp tay cho VGCS triệt hạ đi cả chế độ. HT Thích Quảng Độ đã dấn thân vào việc dẹp bỏ chế độ của miền Nam. Vậy thì thật là vô lý nếu cho rằng bây giờ ngài lại tranh đấu đòi phục sinh cho cái chế độ đó. Những việc như thế làm người ta không hiểu được mục tiêu “chống” của HT Thích Quảng Độ là gì? Ngài có thực sự chống cộng không?
* Lm Phan Văn Lợi - Lm Lợi hiện nay trở thành một chính trị gia ở trong nước nhưng chạy show ăn khách tại hải ngoại, và là thần tượng chống cộng của nhiều người. Chính vì cái hào quang sáng quá nên không ai thấy bên cạnh ông linh mục lại có hai vị đại pháp sư nổi tiếng kèm hai bên. Cả hai đều xuất thân là cháu ngoan bác Hồ. Đại pháp sư Đỗ Nam Hải được VT đặc phái tả phù cho cha Lợi. Hữu bật là đại pháp sư Trần Anh Kim, nguyên trung tá chính ủy do đảng Dân Chủ cuội của Hoàng Minh Chính đặt để. Lm Nguyễn Văn Lý dốc tâm huyết gầy dựng nên khối 8406. Nay Lm Phan Văn Lợi đặt khối vào tay hai nhà phù thủy làm thành một bộ ba lãnh đạo để vô hiệu hóa hoạt động của khối và chích thuốc trợ tử cho tổ chức đấu tranh này. Đỗ Nam Hải đẩy Nguyễn Chánh Kết qua Mỹ cho bọn VT đưa lên giàn hỏa. Trần Anh Kim ký bổ nhiệm GS Nguyễn Xuân Vinh làm đại diện Khối 8406 tại Mỹ cùng với một lô thành phần bát nháo khác. GS Vinh là người thế nào và bọn bát nháo chống cộng ra làm sao thì người ta đã biết. Thực tế cho thấy, Lm Phan Văn Lợi cho dù thần thông đến đâu cũng không địch lại pháp thuật của yêu quái.
* Thứ ba, Lm Nguyễn Hữu Lễ - Cha Lễ cũng vậy. Khi ngài ngả vào bàn tay của VT thì việc đầu tiên là ngài dùng quyền năng và uy tín của một linh mục để rửa tội cho tên cáo già Hồ Chí Minh, xóa sạch đi cái đại tội Việt gian bán nước của hắn. Tên tội đồ chỉ còn trơ lại là một con người trần tục bình thường với những đam mê của nó. Sau khi xem DVD của cha Lễ, người tỵ nạn đã tối mắt rồi, còn phải bù đầu cầy cuốc nữa nên không có thì giờ đọc những tên dân chủ cuội trong nước ca tụng Hồ. Ít khi được nghe một bản hợp xướng nhịp nhàng như thế. Cuối cùng làm nổi bật lên Hồ là người có công lớn đối với đất nước. Tội của “bác” chỉ là sự thể hiện tính tự nhiên nơi con người. Luận điệu rập khuôn như VT công bố trên báo chí: Hồ Chí Minh là người có công với đất nước và đảng CS là một thành phần của dân tộc.
2. Chống theo phe cánh
Tinh thần bè phái hình như đã trở thành đặc tính của người Việt tỵ nạn hiện nay. Kết bè để chống cộng thì hết thuốc chữa. Chẳng hạn như chuyện vợ chồng ông Dương Văn Liêm, Lưu Lệ Ngọc quan hệ với VGCS đã là một sự thật hiển nhiên, được chính đương sự xác nhận trên đài VNHN. Thế mà các ông Nguyễn Tường Thược, Nguyễn Đăng Tuấn vẫn cứ gân cổ lên bênh cho bằng được. Ông Nguyễn Đăng Tuấn lại là đương kim chủ tịch Văn Bút VN Hải Ngoại đấy nhá. Không bè phái là gì? Sự kết bè kéo cánh của đám dân chủ cuội và bọn chống cộng bịp diễn ra khá lộ liễu.
Hiện tượng hết sức tiếu lâm mà ai cũng thấy rõ là hễ bất cứ ai đụng đến Nguyễn Chí Thiện là bà Bút Vàng nhẩy đông đổng lên bênh và chửi người ta là CS. Nhưng Nguyễn Chí Thiện là ai thì bây giờ mặt nạ của hắn đã rớt rồi. Thiện có đi diễn thuyết nhiều nơi. Đôi khi Thiện có tham gia biểu tình chống cộng. Thiện giấu đầu nhưng lại hở đuôi. Hắn lén lút theo Hoàng Minh Chính, Bùi Tín v.v. vào rừng giàn dựng ra màn kịch Tiểu Diên Hồng để HHHG với CS thì người ta đã nhìn thấy cái đuôi chồn của hắn. Chưa nói đến vụ Nguyễn Chí Thiện lý lịch bất minh, Nguyễn Chí Thiện hành động quanh co mờ ám chung quanh tập thơ Vô Đề.
Một điển hình khác về kiểu chống theo phe nhóm là trường hợp một số nhân vật vây quanh Bùi Tín tỷ như Phan Nhật Nam, Chu Tất Tiến, Trần Phong Vũ v.v.. Nhóm này bảo vệ Bùi Tín và bọn phản tỉnh cuội đỡ ồn ào hơn nhưng cũng quyết liệt lắm. Trần Phong Vũ nhất quyết rằng Bùi Tín đã hoàn toàn phản tỉnh. Thế nhưng Bùi Tín có phản tỉnh thật không thì xin xem đây. Mới ra khỏi nước Bùi Tín tuyên bố: “Tôi có vị thế của tôi, tôi có liên hệ với trong nước. Thức tỉnh trong nước là điều quan trọng. Cộng sản có những thành tích, cộng sản có những giá trị. Tôi là người cộng sản đến nay đã 45 năm. Chủ nghĩa Marx là phát minh khoa học, là một giá trị. Thuyết giá trị thặng dư của Marx là một giá trị.Duy vật biện chứng pháp là giá trị đóng góp vào kho tàng văn hóa nhân loại.” (Báo Khỏe Đẹp, mục Sinh Hoạt Cộng Đồng, số 355 ngày 13-12-1991). Cho đến nay, lập trường Bùi Tín vẫn không thay đổi. Hắn vẫn từ chối chào lá Cờ Vàng 3 sọc đỏ, vẫn giao du thân mật với đám dân chủ cuội như Vũ Thư Hiên, Nguyễn Minh Cần, Hà Sĩ Phu v.v., vẫn chẳng bao giờ tham dự các cuộc biểu tình chống cộng của người tỵ nạn. Bùi Tín phản tỉnh ở chỗ nào. Bọn chống cộng bịp ở hải ngoại không chịu hiểu rằng Bùi Tín chỉ chống những tên CS đang cầm quyền vì khác phe phái và vì tranh ăn. Bản thân Bùi Tín vẫn là một tên CS từ bản chất. Bùi Tín vẫn luôn luôn tôn thờ và bảo vệ tên tội đồ bán nước và đảng ngụy quyền tay sai của hắn.
Trong nhóm chống cộng bịp, người to tiếng là ông nhà văn Chu Tất Tiến. Ông viết cho tờ báo Người Việt. Ông tấn công CS ở tận bên VN, nhưng tên chủ báo của ông ở ngay trước mắt ông là CS thì ông lại không thấy. Ông viễn thị nặng hay là tinh thần bè phái? Chuyện ông làm dân vận bọn trẻ trong nước mới thật là lố bịch. Ông trưng dẫn lịch sử sai tùm lum. Nhà báo Nam Nhân sửa sai cho ông thì ông chụp nón cối lên đầu người ta. Ông viết Hai Bà Trưng xuất thân từ giai cấp nông dân đứng lên làm cách mạng thì bọn trẻ ở trong nước nín cười hết nổi, mà chắc nín thở luôn. Hai Bà Trưng là con gái quan Lạc Tướng ở Mê Linh, giai cấp quí tộc chứ đâu phải con nông dân. Ông Chu Tất Tiến muốn bắt chước sử gia Phạm Văn Sơn viết Hai Bà làm cách mạng. Sử gia Phạm Văn Sơn dùng chữ cách mạng theo nghĩa Hai Bà dành lại được quyền tự chủ từ chế độ Hán thuộc. Thế nhưng ông Chu Tất Tiến muốn phịa ra rằng Hai Bà là thành phần bần cố nông đứng lên làm cuộc cách mạng vô sản như “Bác Hồ” của bọn trẻ trong nước. Dân vận bọn trẻ quàng khăn đỏ như thế thì hết sẩy rồi. Sự thực Hai Bà chỉ thiết lập một nhà nước phong kiến thô sơ ở nước ta sau khi đánh đuổi quân Hán, thu phục 60 thành trì, chứ đâu phải cách mạng vô sản, hữu sản gì.
3. Chống vì cảm thấy bất lực
Phải thừa nhận một sự thật là tinh thần chống cộng của cộng đồng tỵ nạn càng ngày càng yếu đi trong khi CS càng ngày càng thắng thế mặc dầu cuộc đấu tranh diễn ra ngay tại Mỹ. Như chúng tôi đã phân tích trong phần Hậu Quả Của Xâm Nhập trên đây, trong cộng đồng, một số không nhỏ đã đầu hàng VGCS vì nhiều lý do: tiền bạc, danh vọng, cảm tình gia đình, bị bắt bí v.v. Đa số chán nản buông xuôi và trùm chăn. Chỉ còn lại một thiểu số có tâm huyết vẫn kiên trì chiến đấu nhưng cảm thấy bất lực. Chiến đấu với tình trạng tâm lý như thế thật khó giữ được bình tĩnh. Rất nhiều bài viết phê phán gay gắt những khuynh hướng ngả theo CS xuất hiện trong lúc gần đây biểu lộ khuynh hướng đó. Tác giả thường bị bọn chống cộng bịp bắt bẻ là bạ cái gì cũng chửi, bạ ai cũng chống. Thử công minh một chút xem. Hoàng Minh Chính định lùa người Việt tỵ nạn vào cái tròng HHHG qua đề nghi cái bàn tròn Tiểu Diên Hồng. Chống có đúng không? Phê bình ông Nguyễn Bá Cẩn xì xụp vái lậy trước bàn thờ tên dân chủ cuội HMC. Sai ở chỗ nào? Vậy thì vấn đề không phải ai cũng chủi, cái gì cũng chống, mà là ở chỗ chửi có đúng và chống có đúng không. Dùng từ “chửi” và từ “đánh phá” để buộc tội những bài viết trung thực đã là điều bất công. Kết tội là CS lại càng bất nhân và bất công hơn nữa. Đành rằng có văn nô hoặc bồi bút len lỏi đánh phá trên các diễn đàn đàn. Nhưng tuyệt đối không phải bài phê bình nào cũng là của CS cả. Để xác định một bài viết có do CS tung ra hay không, chỉ cần đọc nội dung của nó, phê bình đúng hay sai, có ý hướng xây dựng hay chỉ cố ý đả phá. Tiếng nói của người chính trực thường là những lời cảnh tỉnh. Mặc dù họ không phải là tiên tri, nhưng lời của họ giống như của các tiên tri Do Thái ngày xưa: thẳng thắn, mạnh bạo, và rất chói tai. Việc họ làm là cảnh giác dân chúng trước những nguy vong của đất nước.
Nếu đã nhìn nhận tình hình chống cộng và tình trạng chống nhau trong cộng đồng hiện nay đáng bi quan thì những tiếng nói phê phán trung thực nhất định là cần thiết. Thế nhưng điều hết sức bi quan là, những tên CS hoặc tay sai bị tố cáo có bằng chứng, có cơ sở thì lại không mấy người tin. Trái lại, những lời tố cáo hoặc chụp mũ nhau không dựa trên một bằng chứng nào hoặc một căn bản lý luận nào thì lại lắm người nghe theo. Lối chống cộng theo cảm tính hoặc nặng tinh thần phe phái đã trở thành khuynh hướng hành động theo định huớng đúng như CS mong muốn. Định hướng cuộc chống cộng của người tỵ nạn theo chiều hướng có lợi cho CS về lâu về dài là sách lược quan trọng của NQ36.
4. Để lật tẩy cộng sản
Để chận đứng tình trạng tai hại này, người quốc gia trước hết cần xác tín rằng có VGCS xâm nhập để cảnh giác. Vấn đề sau đó cần đặt ra là làm thế nào để có thể nhận diện chính xác được các tên VGCS và tay sai của chúng. Khó khăn của chúng ta là chẳng có tên CS nằm vùng nào mang giấy tờ tùy thân. Chúng ta cũng không có quyền hạch hỏi công chứng thư của chúng. Như vậy thì chỉ còn cách là phải căn cứ vào lập trưòng mà thẩm định. Nếu cần nữa thì phải nhờ đến túi khôn của người xưa để lại, tức là cách luận việc để biết người.
4.1 Căn cứ trên lập trường
Quốc Gia và CS là hai thực tế đối kháng lẫn nhau cả về lý thuyết lẫn hành động. Về mặt lý thuyết, xin nhấn mạnh chữ đối kháng mà không phải là đối lập. Đối kháng mang ý nghĩa phủ định và triệt tiêu lẫn nhau, trong khi đối lập chấp nhận nhau để cùng cạnh tranh sinh tồn. Lập trường của người tỵ nạn là lập trường dân tộc (quốc gia). Cộng sản là một khái niệm quốc tế, nó phủ nhận dân tộc tính nơi mỗi con người. Do đó, quốc gia và cộng sản không thể nào đứng chung và không thể nào cùng tồn tại, trái lại, luôn loại trừ nhau. Đó là khái niệm cơ bản về lằn ranh quốc gia và cộng sản.
Trong tình trạng vàng thau lẫn lộn hiện nay, căn cứ vào lập trường chính trị, tạm có thể xác định một người nào đó là ai: CS hay quốc gia, hoặc thành phần thứ ba. Thành phần nửa nạc nửa mỡ thứ ba thường tự nhận là những người đứng giữa, bao gồm những kẻ chủ trương đa nguyên đa đảng, những kẻ đấu tranh đòi bỏ điều 4 Hiến pháp, nhũng kẻ thừa nhận Hồ Chí Minh có công đối với Dân Tộc v.v. Những thành phần này không hẳn là CS nhưng chắc chắn không phải quốc gia căn cứ vào khái niệm lập trường quốc, cộng vừa nói. Trên thực tế họ đã chấp nhận đầu hàng CS rồi. Họ chỉ đấu tranh đòi chia quyền và chia tiền với CS. Chủ trương của người quốc gia là phải xóa bỏ hẳn chế độ CS, nhổ tận gốc những ảnh hưởng gian ác của chúng để xây dựng một đất nước VN mới, tự do và dân chủ thực sự, hùng mạnh về kinh tế, còn phải đạo đức trong lối sống. Trong chính thể tương lai, nếu vẫn còn sự hiện diện của đảng CS thì chỉ với sức mạnh kinh tế của chúng, CS vẫn thừa sức thao túng nền chính trị quốc gia. Hiện nay, tất cả guồng máy kinh tế của đất nước đều đã nằm gọn trong tay bọn đảng viên CS rồi. Nói thế không phải để buông xuôi, mà là để biết mình, biết người hầu tìm ra cách đối phó hữu hiệu hơn. Phải tự tin vì người quốc gia có một lợi thế rất lớn, hơn CS rất nhiều. Đó là lòng dân:
Đắc cương thổ nhi thất nhân tâm, tất bại.
Thất cương thổ nhi đắc nhân tâm, tất thắng.
(được đất đai nhưng mất lòng người, tất bại. Trái lại, mất đất đai nhưng được lòng người tất thắng). Hiện nay VGCS chiếm được nước nhưng chúng đã hoàn toàn mất lòng dân. Ngược lại, người quốc gia phải lưu vong tỵ nạn nhưng vẫn được người dân trong nưóc yêu mến, hướng về. Như vậy thì tại sao chúng ta lại phải đầu hàng CS?
Sự khác biệt hệ ý thức quốc/cộng đã đưa đến cuộc chiến tranh VN trong suốt 3 chục năm và hậu quả còn kéo dài cho đến ngày nay. Thực tế chiến tranh VN cho thấy trên lý thuyết tuy đối kháng lẫn nhau, nhưng suốt 2/3 thế kỷ nay, không phải người Quốc Gia, mà chỉ có CS luôn truy lùng, đàn áp, bắt bớ, bỏ tù, và xâm lấn người quốc gia không ngừng nghỉ. Ngưòi quốc gia chạy ra nước ngoài rồi vẫn còn bị CS theo đuổi để chinh phục. Như thế, người quốc gia chống lại CS là chuyện bắt buộc. Về thực hành, cách thực tế nhất để phân biệt quốc gia với CS là căn cứ vào việc có chấp nhận lá Cờ Vàng hay không. Người quốc công nhận lá Cờ Vàng 3 sọc đỏ của chế độ VNCH. Từ lập trường này, chúng ta xác định công cuộc chiến đấu chống lại chế độ VGCS là để khôi phục lại chế độ Cộng Hoà đã bị CS tiêu diệt. Mục tiêu này tồn tại ít nữa là trong giai đoạn hiện nay, khi chế độ CS không còn nữa sẽ tính sau. Đây là vấn đề đặt lằn ranh rõ ràng giữa Quốc gia và những kẻ không phải là quốc gia, nhất là CS.
4.2 Từ cái khôn của người xưa
Như đã nói, không dễ dàng xác định chắc chắn được kẻ nào là CS nằm vùng, kẻ nào là tay sai của chúng nếu chỉ căn cứ vào lập trường không thôi. Không thiếu bọn chống cộng bịp cũng phất cờ vàng, cũng hô đả đảo CS. Nói như thế không có nghĩa là chúng ta hoàn toàn bất lực. Ngoài việc căn cứ trên lập trường, còn có một cách khác giúp chúng ta là làm theo sự chỉ dậy khôn ngoan của người xưa, chẳng hạn:
- châm ngôn Pháp: Cho tôi biết anh thường lui tới với những ai, tôi sẽ nói cho anh biết anh là ai. (Dis moi qui tu frequentes, et je te dirai qui tu es), hoặc
- tục ngữ: Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã, hay như
- lời cố TT Nguyễn Văn Thiệu: Đừng nghe những gì CS nói, mà hãy nhìn kỹ những gì CS làm.
Việc truy tìm CS căn cứ trên lập trường và dựa vào các tiêu chí trên có thể tin là chính xác. Lấy thí dụ trường hợp Nguyễn Chí Thiện. Nếu chỉ nghe Nguyễn Chí Thiện nói thì ai cũng cho ràng hắn là một người chống cộng thiệt. Hắn chửi CS hay, chào Cờ Vàng nghiêm chỉnh, đôi khi còn tham gia biểu tình nữa. Nhưng bởi vì Nguyễn Chí Thiện luôn cặp kè với bọn VT và nhất là còn theo Hoàng Minh Chính vô núi để bàn kế hoạch Tiểu Diên Hồng thì chắc chắn hắn là một tên chống cộng bịp, nếu không muốn nói là một điệp viên nằm vùng của VGCS.
NQ36 và vai trò của Việt Tân
Nói đến NQ36 mà bỏ quên vai trò của đảng Việt Tân thì thật là một thiếu sót không thể chấp nhận được. Nếu không có đảng VT, chắc chắn VGCS không thể luồn sâu vào trong các cộng đồng tỵ nạn như hiện nay. Nói cách khác, VT chính là công cụ VGCS sử dụng để thi hành NQ36.
Không ai không biết các sách lược đấu tranh của VT đã được quảng bá rộng rãi là:
1- Đối đầu bất bạo động để tháo gỡ độc tài,
2- Xây dựng xã hội dân sự để đặt nền tảng dân chủ, và
3- Vận động toàn dân để canh tân đất nước.
Thoạt nghe, cứ tưởng như là VT chống cộng có sách lược lắm, vì đó là sách lược mà. Nhưng cái đuôi HHHG đã lại lòi ra ngay: “Do đó, ngay từ bây giờ phải tập trung nỗ lực để gầy dựng tư thế và uy tín cho Việt Tân, để trong tương lai, khi áp lực đấu tranh buộc đảng cộng sản Việt Nam phải chấp nhận mở ra bối cảnh sinh hoạt đa nguyên, Việt Tân đã trong tư thế sẵn sàng để đối đầu với đảng CSVN trong trận thế đấu tranh chính trị công khai (phỏng vấn BS Trần Xuân Ninh). Thì ra sách lược của VT là dọn đường về nước để đấu tranh chính trị. Nói trắng ra là bắt tay hòa hợp với VGCS. Sách lược này, nếu do một đảng phái quốc gia lương thiện có một quá trình tranh đấu già dặn kinh nghiệm thì có thể tin tưởng được phần nào, mặc dầu vẫn biết nó đáng nghi ngờ. Nhưng nó lại được quảng bá từ một tổ chức thảo khấu bất lương để bịp bợm thì không ai tin được. Điều hết sức phi lý là tổ chức này, những con người này không những đã không bị pháp luật trừng trị, mà trái lại nó vẫn mặc sức tung hoành và có vẻ còn có thế giá đối với chính quyền Mỹ.
Câu hỏi là tại sao? Và đây là câu trả lời: vì VT là tay sai, là công cụ. Tổ chức này từ bước đầu mới thành lập, hồi còn có tên là Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng VN, gọi tắt là Mặt Trận Hoàng Cơ Minh, nó đã bị khuynh loát và thao túng bởi phó đề đốc Hoàng Cơ Minh, một con người tham tiền và bịp bợm. Từ đầu thập niên 1980 đến nay (năm 2009), về danh xưng tổ chức này đã thay đổi từ Mặt Trận thành Đảng. Về mặt sinh hoạt, nó đã biến thái qua ba giai đoạn từ một tổ chức kháng chiến bịp đến hình thức mafia chuyên gây tội ác, và hiện nay là công cụ cho các thế lực chính trị sử dụng để mưu giàn dựng ra cái gọi là hòa hợp hòa giải hầu thiết lập cho VN một thể chế dân chủ cuội sau này.
1. Giai đoạn kháng chiến bịp
Giai đoạn ngắn ngủi này là lúc ông HCM còn sống. Dán cái nhãn hiệu “bịp” vào tên tuổi của một tổ chức chống cộng giải phóng quê hương thứ thiệt là phạm đại tội. Nhưng ịn lên tên MT Hoàng cơ Minh chữ “bịp” thì đúng lắm. Báo chí gọi thế. Người dân tỵ nạn gọi thế. Không phải người viết gọi thế với ý xấu, bởi vì ông HCM dựng lên Mặt Trận để bịp thiệt. Khu chiến là khu chiến giả. Kháng chiến là kháng chiến bịp. Báo kháng chiến toàn phịa tin không có. Kháng chiến quân hơn một trăm người thì khoảng một trăm là thanh niên Miên, Lào được ông HCM thuê mướn để đóng phim. Thế nhưng ông HCM đã nhân con số lên thành 10.000 tay súng. Phịa để làm gì? Câu trả lời là lời ông Minh nói với đại tá Phạm Văn Liễu như sau: “Phải tuyên bố như vậy thì đồng bào mới cho tiền.” Theo nhiều nguồn tin khác nhau, số tiền đồng bào ủng hộ MT được ước lượng không dưới 10 triệu dollars. Số tiền lớn này ông HCM trao cả cho người em ruột của ông là ông Hoàng Cơ Định. Ông Định có gởi sang Thái Lan cho ông Minh 160.000 dollars để dùng cho kháng chiến, nhưng ông Minh gởi trả lại ông Định bảo cứ giữ lại tại Mỹ.
Ông HCM còn đảm nhận một nhiệm vụ quan trọng khác nữa do người Mỹ thuê mướn là xâm nhập các nước Việt, Miên, Lào để tìm lính Mỹ mất tích bị nghi là vẫn còn sống. Vấn đề này báo chí có nói qua, nhưng vì là việc của CIA nên chẳng bao giờ tìm ra dấu vết. Chứng cứ là câu nói của BS Lê Văn Trực được cụ Phạm Ngọc Lũy ghi lai: “…việc anh Minh (HCM) đi Thái Lan có bàn tay Mỹ chi phối, trước sau rồi cũng làm tay sai.” (Phạm Ngọc Lũy: Hồi Ký Một Đời Người, tập II, trang 10).
Những chuyện về MT và về người chủ sự của nó là phó đề đốc HCM kể thì nhiều lắm. Tài liệu chất cao bằng đầu. Tất cả đi đến kết luận ông HCM là một con người mưu mô, xảo quyệt, phản bội đồng chí, tàn ác với đồng đội, thiếu tư cách lãnh đạo nên không làm được việc lớn, tham quyền và nhất là tham tiền. Do đó không thể có chuyện gọi là “giải phóng đất nước”. Tất cả được gói gọn trong một chữ “Bịp”.
2. Giai đoạn trở thành Mafia
Sau khi ông HCM chết, MT biến thành tổ chức mafia người Việt tại hải ngoại. Tổ chức này về mặt nổi do Nguyễn Kim Huờn túc Nguyễn Kim, một người rất ít được biết đến trước đó, lãnh đạo, nhưng mọi chuyện đều bí mật nằm dưới sự chỉ đạo của Hoàng Cơ Định, người em cùng cha khác mẹ vói HCM. Định là người trước năm 1975 đã bị sa thải khỏi trường Cao Đẳng Hóa Học, Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ, Saigon vì lý do tham nhũng. Ls Hoàng Duy Hùng đã trích dẫn báo cáo của cơ quan FBI nhận định về MT như sau: MT và CS nằm vùng đã xâm nhập vào mọi lãnh vực cộng đồng, vào các nhóm du đãng, trẻ em Mỹ lai, và vị thành niên để dụ dỗ và khống chế các em gia nhập các băng đảng tội ác như làm đĩ, buôn bán ma túy và vũ khí, chuyển ngân lậu v.v. Ngoài ra MT còn bị tố cáo tội giết người như các nhà báo Đạm Phong, Lê Triết. Điều cần nhấn mạnh là ông Hoàng Duy Hùng là một luật sư tốt nghiệp và hành nghề tại Mỹ nên những tài liệu ông trưng dẫn nói rằng của cơ qua FBI phải tuyệt đối tin là đúng. Chắc chắn ông Ls Hùng không dám ăn nói bạt mạng, đùa dỡn với FBI. Lại nữa trong phiên tòa gọi là MT kiện báo chí diễn ra tại quận hạt Santa Clara ngày 12-12-1994, ông trung sĩ cảnh sát Douglas Zwemke cũng đã xác nhận rằng cảnh sát có đủ bằng chứng MT lem nhem tiền bạc, oa trữ vũ khí để uy hiếp và hăm dọa, gian lận thuế má và sổ sách.
MT bị tố cáo tất cả gồm 39 tội danh mà hầu như đều là tội đại hình. Điều không hiểu nổi là cho đến nay luật pháp nước Mỹ vẫn không điều tra và truy tố bất cứ một ai. Pháp bất vị thân. Luật pháp quốc gia có trách nhiệm phải điều tra và truy tố các kẻ phạm pháp ra tòa để buộc chúng phải đền tội. Cảnh sát nói đã có bằng chứng MT vi phạm luật. MT đông như thế, chẳng lẽ mấy chục năm qua cảnh sát không tìm ra được lấy một tên tội phạm trong đó. Chuyện như giỡn chơi, thật sự không thể nào lý giải được trừ khi chúng ta đặt nó vào cái thế của bàn cờ chính trị của VN hiện nay.
3. Giai đoạn làm công cụ
Theo lý thì MT đã phải bị giải tán và những kẻ vi phạm luật pháp đã phải bị trừng trị. Thế nhưng chẳng có chuyện gì xảy ra. Thái độ mắt nhắm mắt mở của cơ quan an ninh Mỹ đã mở ra con đường biến MT thành công cụ để sử dụng. Phương pháp dùng người kiểu này rất thường thấy trong lãnh vực tình báo. Nó cũng không khác mấy chuyện công an CS dùng bọn côn đồ tội phạm để dẹp biểu tình của giáo dân.
Sau khi được tha bổng và được sử dung, MT mới bắt đầu lột xác biến thành đảng chính trị với cái tên là Việt Tân, công khai ra mắt tại Đức ngày 19-9-2004. Thực ra đảng VT đã được thành lập từ tháng 9-1982 gần đồng thời vói MT. Đảng và MT tuy hai nhưng chỉ là một. Chủ tịch đảng Đỗ Hoàng Điềm của VT hiện nay là một người trước đây ít có ai biết tiếng. Lý Thái Hùng, tổng bí thư, đuợc nhận diện là Bùi Minh Đoàn, và bị tố cáo là CS. Hoàng Cơ Định vẫn là người nắm giữ tiền bạc của đảng. Nhưng dư luận lại tin Nguyễn Xuân Nghĩa cháu tên cựu TBT đảng CSVN Nguyễn Văn Linh mới thực sự là linh hồn của đảng VT.
Chính phủ Mỹ sử dụng một đảng chính trị chủ trương chung sống hòa bình với CS, lại được lãnh đạo bởi các cán bộ CS thì cầm chắc là VGCS sẽ rất hài lòng. Luật pháp Mỹ không cho phép bất cứ một tổ chức nào ở Mỹ chủ trương đấu tranh lật đổ một chính phủ ngoại quốc bằng vũ lực mà nước Mỹ có thiết lập bang giao. MT chủ trương lật đổ nhà nước VGCS bằng vũ lực, do đó bắt buộc phải đổi thành đảng VT với chủ trương bắt tay hòa hơp với VGCS. Đó là lý do bắt buộc MT phải biến thành đảng VT để được phép hoạt động trên đất Mỹ. Vấn đề quan trọng ở đây là tại sao lại nói VT thực hiện NQ36 của VGCS. Để có câu trả lời, chúng ta cần trở về thời gian khoảng hơn mười năm về trước. Một lần sau khi ông Dennis Harter, Phó Đại Sứ Mỹ tại VN nói chuyện với cộng đồng người tỵ nạn tại Houston, Texas, hai nhà báo Trọng Kim và Nguyễn Quốc Cường viết bài tường thuật trên báo Ngày Nay nhận định rằng: nếu chúng ta đừng nghe những gì CS và HK nói, mà hãy nhìn vào những gì CS và HK làm, thì qua phần đối đáp của ông Harter, người ta có thể kết luận mà ít sợ sai lầm là hiện nay HK và VN quả thật đang cùng dắt tay nhau đi dưới những tấm bảng chỉ đường của một lộ trình Diễn Biến Hòa Bình. Kể như đã rõ ràng. Mỹ và CS bắt tay tiền chế một chế độ hòa hợp đa đảng tại VN mà VT là nhóm người được chọn lựa để làm đối lập với CS. Từ đó cho tới nay VT đã rất tích cực thi hành nhiệm vụ làm công cụ của mình. Những việc VT làm báo chí đề cập đến hàng ngày, vậy xin được miễn nhắc lại. Nói một cách tổng quát thì là một đàng ở trong nước, VT cấu kết với những thành phần dân chủ cuội trương chiêu bài tranh đấu đòi Dân Chủ. Một đàng tại hải ngoại, VT dựa vào sự yểm trợ ngầm của Mỹ, thi hành NQ36 trong cộng đồng tỵ nạn để xâm nhập, lũng đoạn, và lèo lái cộng đồng đi đến quên quá khứ, xóa hận thù hầu chấp nhận sống chung với VGCS. Đã có những chỉ dấu cho thấy các nhân vật tranh đấu trong và ngoài nước liên kết thành những tập thể đối lập giả hiệu do VT điều hợp dưới sự chỉ đạo ngầm của cả Mỹ lẫn VGCS. Đó là diễn biến hòa bình mà các ký giả Trọng Kim và Nguyễn Quốc Cuờng đã nói tới.
Nên biết rằng trở ngại lớn nhất của diễn biến hòa bình là sự chống đối của người Việt tỵ nạn. VGCS coi khối người tỵ nạn là trở ngại đã đành, nhưng ngay cả chính quyền Mỹ cũng vậy. Chính quyền Mỹ sợ dư luận. Điểm đặc biệt và quan trọng nhất của nền dân chủ Mỹ là dư luận của quần chúng. Cả hành pháp lẫn lập pháp đều sợ dư luận, vì dư luận nói cụ thể ra là lá phiếu của cử tri. Hành pháp Mỹ dám giết tổng thống của một quốc gia, dám đem quân bắt tổng thống của nước khác đem về nhốt tại Mỹ, dám tống cổ một nước bạn thâm tình ra khỏi tòa nhà Liên Hiệp Quốc, dám xóa tên một nước có chủ quyền trên bản đồ thế giới, nhưng họ lại không dám đi ngược lại ý muốn của dân chúng Mỹ. Chính giới Mỹ sẵn sàng tạo ra dư luận để hoàn thành một mục tiêu nào đó cho mình. Phong trào phản chiến trước 1975 nếu không được thúc đẩy bới bàn tay lông lá thì khó lên cao được như đã thấy. Cho nên để thực hiện diễn biến hòa bình với VGCS, Chính phủ Mỹ trước tiên phải dẹp đi sức đấu tranh của khối người tỵ nạn. Kẻ đứng ra làm công cụ là VT. Phương pháp thông thường như đã nói trên vẫn là “Dĩ di công di”, tức là lấy tỵ nạn diệt tỵ nạn.
4. Một vấn đề ngoài lề
Bài viết đã dài. Đến đây coi như đã có thể kết thúc, chỉ còn phần kết luận. Ngưòi viết muốn nhân cơ hội đặt vấn đề với các quí vị tướng tá, quân nhân QLVNCH đang là thành viên của đảng VT nên mới có vấn đề ngoài lề như thế này. Ý thức rằng QLVNCH trước kia và bây giờ vẫn là lưc lượng chủ lực chống cộng hữu hiệu nhất. Sự mất mát lớn lao nhất cho hàng ngũ người quốc gia yêu nước là việc một số không nhỏ quí vị quân nhân chạy theo băng đảng VT. Sự phản phúc của băng đảng VT thì đã rõ ràng, không còn gì phải nói. Vấn đề chúng tôi muốn đặt ra là với tư cách là thành viên của đảng VT, việc đấu tranh của quí vị sẽ đem lại lợi ích gì cho đất nước. Quí vị đã dâng hiến cho Tổ Quốc nửa cuộc đời thanh xuân, coi như đã trả xong nợ sông núi. Không lẽ nửa quãng đời còn lại quí vị lại quay đầu lại với Tổ Quốc. Quí vị gia nhập đảng VT chính là hành vi đối đầu với Tổ Quốc, phản bội đồng đội và phản bội chính mình rồi vậy.
Trước hết, quí vị đối đầu với Tổ Quốc với ảo tưởng rằng theo VT được Mỹ ủng hộ là quí vị đấu tranh cho tự do dân chủ tại VN. Quí vị lầm rồi. Bao nhiêu chuyện VGCS đàn áp nhân dân ta ở trong nước, Bộ Ngoại Giao và tòa Đại Sứ Mỹ ỏ Hànội có bao giờ có biện pháp gì cụ thể giúp đâu, hay là chỉ ẫm ờ cho qua chuyện. Nhìn về quá khứ các năm 63, 75, lúc đó dù không có chuyện, chính quyền Mỹ cũng tạo ra cho có, chuyện nhỏ họ thổi lên thành chuyện lớn. Để làm gì thì mọi người đã thấy và lịch sử đã ghi chép đầy đủ. Đấy là cách thức chính quyền Mỹ giúp đỡ người quốc gia chúng ta. Người Việt tỵ nạn, nhất là các quân nhân QLVNVH cần nhìn và hiểu thấu đáo cái THẾ chính trị này. TT George W. Bush tiếp Đỗ Hoàng Điềm tại tòa Bạch Ốc được coi là một hình thức thừa nhận (endorse) VT cho người Việt tỵ nạn nhìn thấy mà theo. Nhưng đối với người tỵ nạn, hành động của Bush chẳng qua chỉ là để tưởng thưởng VT cũng giống như một ông chủ vuốt ve con chó trung thành và biết giữ nhà. Đừng có cho chuyện đó là quan trọng. Mỹ trở lại VN, đó là vì nhu cầu của nước Mỹ. VN cần Mỹ giúp, đó là một lợi ích thiết thực. Nhưng vấn đề là quan hệ và sư hợp tác hai bên đặt trên căn bản nào. Kinh nghiệm và lịch sử dậy chúng ta rằng, nếu chúng ta mạnh, người Mỹ sẽ giúp chúng ta trong tư thế bạn bè. Còn nếu chúng ta yếu, họ sẽ giúp chúng ta trên tư thế của một ông chủ đối với đầy tớ. VT làm công cụ cho một chính quyền đã bức tử chế độ VNCH tức là họ đã đối đầu với Tổ Quốc. Tin rằng Mỹ thừa nhận đảng VT tức là Mỹ giúp người quốc gia tiêu diệt CS? Xin đừng mơ ngủ nữa. Mở mắt ra mà nhìn đi.
Thứ nữa là quí vị đã phản bội đồng đội và phản bội chính mình khi quí vị chạy theo VT mà quí vị không thấy. Xin hỏi VT ca ngợi VGCS là ái quốc có phải là họ gián tiếp kết án QLVNCH phản quốc không? Câu trả lời nhất định phải là đúng. Như vậy người quân nhân QLVNCH chạy theo VT là họ đã phản bội đồng đội và phản bội chính mình rồi vậy. VT chối bỏ tư cách tỵ nạn với việc biến ngày Quốc Hận 30-4 thành ngày Tự Do cho VN. VT phỉ báng chính nghĩa quốc gia, ca tụng VGCS qua sụ kiện cho tên CS Hà Dương Đực lên đài phát thanh hạ nhục QLVNCH, đề cao quân cướp VGCS. VT công nhận Hồ Chí Minh có công đối với đất nước và đảng VGCS là một thành phần dân tộc v.v. Cứ cho rằng những việc động trời đó là những sai lầm không đáng kể do đảng viên cấp dưới không ý thức đúng lập trường và đường lối của đảng. Nhưng thử hỏi khi trung ương đảng VT công khai ca tụng VGCS là ái quốc thì sao đây? Đây không phải chuyện nhỏ nhặt mà là vấn đề quan điểm, quan điểm về lòng yêu nước. Chỉ cần đặt ra một câu hỏi với VT: “thế nào là yêu nước” thì đã đủ để lột mặt nạ của VT xuống rồi. Nêu trường hợp cụ thể xem VT có cãi được không. Cách đây không lâu khi Nguyễn Hộ, một tên CS cực kỳ hung ác và khát máu chết, trung ương đảng VT tức tốc gởi đi khắp thế giới lời phân ưu với gia đình Nguyễn Hộ, ca tụng hắn là một nhà ái quốc. Nguyễn Hộ là ai thì hẳn người quốc gia ở miền Nam, nhất là vùng Saigon, Cholon không ai không biết. Hắn là kẻ giết người không run tay. Hắn công khai tuyên bố chính sách đối xử với quân, cán, chính VNCH khi hắn vào Saigon năm 1975 như sau: Nhà chúng, ta ở, vợ chúng, ta lấy, con cái chúng, ta bắt làm nô lệ, còn chúng, ta cho đi cải tạo không có ngày về. Một tên CS ác ôn như vậy mà đảng VT ca ngợi là một nhà ái quốc. Nếu Nguyễn Hộ ái quốc thì các vị tướng, tá QLVNCH như Nguyễn Khoa Nam, Phạm Văn Phú, Hồ Ngọc Cẩn v.v. là thế nào? Nhất định là phản quốc chứ gì, có đúng không? Nguyễn Khoa Nam, Nguyễn Hộ, hai người bắn giết nhau ngoài mặt trận vì vấn đề đất nước. Nếu Nguyễn Hộ được kể là yêu nước thì Nguyễn Khoa Nam nhất định phải là phản quốc. Đấy là logic của lý luận. Lại nữa, nếu TT Nguyễn Khoa Nam, ĐT Hồ Ngọc Cẩn v.v. là phản quốc thì cả tập thể QLVNCH cũng kể là phản quốc luôn. Đây cũng là logic của lý luận. Quí vị tướng tá, quân nhân QLVNCH đầu quân theo VT nghĩ sao đây, xin quí vị hãy lựa chọn chỗ đứng: là người “yêu nước” như tên CS ác ôn Nguyễn Hộ, hay là kẻ phản quốc như Nguyễn Khoa Nam, như Hồ Ngọc Cẩn? Nếu quí vị chọn chỗ đứng bên cạnh Nguyễn Hộ thì đích thực quí vị đã phản bội lại QLVNCH, phản bội đồng đội, và phản bội chính quí vị rồi vậy.
Kết Luận
Bài viết này chấm dứt đúng vào lúc phong trào tố giác bọn đón gió trở cờ lên cao. Người viết tự tin rằng mình làm đúng và còn có rất nhiều đồng minh. Vô hiệu hóa hay chống lại NQ36 của VGCS là vấn đề sinh tử của người VN tỵ nạn CS. Đây là trận chiến cuối cùng. Nếu chúng ta thua, về danh nghĩa, chúng ta sẽ bị VGCS coi là kiều bào của chúng sinh sống tại hải ngoại. Khó còn cơ hội để phục quốc. Còn như nếu thắng, chúng ta còn có cơ hội đấu lại ván cờ. Như trên chúng tôi đã nói, VGCS đang áp dụng phương pháp “Dĩ di công di” để chinh phục đồng bào tỵ nạn chúng ta. Để dành được thắng lợi trong trận chiến sinh tử này, trước hết và trên hết, chúng ta phải tiêu diệt hết những kẻ núp vào cái vỏ bọc tỵ nạn để đánh phá chúng ta. Đây là con đường duy nhất, không có sự lựa chọn nào khác. Đánh Việt gian, diệt VC, đuổi xâm lược là tiến trình hợp lý nhất để cứu đất nước.