Cái chết của các tướng Việt gian Cộng sản (Thâm cung bí sử)

Bài 5
Cái chết của các tướng VGCS
 (Chuyện Thâm Cung Dưới Triều Đại Hồ Chí Minh) 
(Tác giả: Việt Thường)
--------------------------


Những ngày gần đây, dư luận cả ở trong và ngoài Việt Nam cùng ồn ào về những cái chết bí ẩn của một số tướng lãnh của cộng sản Việt Nam. Đó là các đại tướng Lê trọng Tấn, Hoàng văn Thái; trung tướng Đinh đức Thiện và thiếu tướng Phan Bình.

Trong những luồng dư luận khác nhau đó, có luồng mập mờ, chẳng biết có cố ý không, tạo ra hào quang giả xung quanh mấy viên tướng xấu số đó; làm như họ là yêu nước hoặc cấp tiến; làm như họ là những cánh tay đắc lực của nhân vật Võ nguyên Giáp - kẻ mà đã có tác giả viết sách cố bôi vẽ như là người duy nhất hiện nay có thể lái con tàu Việt Nam vượt qua được “tam giác quỷ” vậy !

Bộ máy tuyên truyền kiểu “rỉ tai” của công ty Đỗ Mười-Lê đức Anh-Võ văn Kiệt cũng nhanh nhạy, vội vận hành cả ở trong và ngoài Việt Nam để hướng sự chú ý của dư luận vào mấy cái chết tào lao ấy mà quên mất hướng đấu tranh chính của dư luận hiện nay là đòi hỏi tập đoàn cộng sản tiếm quyền ở Việt Nam phải trả tự do cho các ông Nguyễn đan Quế, Nguyễn Mộng Giao, Nguyễn Hộ và tất cả các tù chính trị khác; phải trả lại quyền làm chủ đất nước cho toàn dân, nghĩa là hủy bỏ chế độ độc đảng trị của cộng sản, phải có chính sách rõ ràng nhằm bảo vệ tài nguyên và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam v.v... Nhất là dư luận cả ở trong và ngoài Việt Nam càng cần vạch rõ bộ mặt gian manh, lòe bịp của tập đoàn cộng sản tiếm quyền ở Việt Nam trong lúc ra nghị quyết “Về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường mặt trận dân tộc thống nhất” thì đã bắt giam ông Nguyễn Hộ, một cựu đảng viên cộng sản lão thành vì đã “dám” có ý kiến về việc chung của đất nước !!!

Vậy sự thực về cái chết của mấy viên tướng ấy là thế nào ?

VẪN LÀ TUỒNG CHÈO CỘNG SẢN

Chế độ cộng sản thì ở nước nào cũng vậy, việc thanh toán nhau theo kiểu ma-phi-a là chuyện thông thường. Từ Nga, Tàu, Cu-ba cho đến Bắc-hàn đều là như vậy. Việt Nam cũng không qua qui luật đó. Tập đoàn cộng sản Hồ chí Minh ngay từ lúc chưa tiếm được quyền thống trị cho đến lúc làm được cuộc đảo chính “nhẹ nhàng” để xóa bỏ chính phủ Liên hiệp chống Pháp ở Việt Nam, thực hiện độc tài đảng trị của cộng sản, bao giờ cũng coi chân lý “chính quyền được đẻ từ họng súng” là bất di bất dịch và “đảng cộng sản phải độc quyền lãnh đạo và quản lý lực lượng vũ trang”. Đấy chính là bi kịch của các viên tướng cộng sản ở Việt Nam.

Người đầu tiên bị làm vật hy sinh là Phùng chí Kiên. Bởi vì Phùng chí Kiên nguyên là thiếu tướng của hồng quân Nga-xô, được bổ xung vào ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Đông dương và đặc trách lực lượng quân sự. Kẻ nào tố cáo để lính của thực dân Pháp phục kích bắn chết Phùng chí Kiên vào giữa năm 1944 ở Việt Bắc có thể cũng là kẻ chỉ điểm cho Pháp bắn chết trung tướng Nguyễn Bình ở miền Nam Việt Nam sau này.

Vì Phùng chí Kiên chết nên lực lượng vũ trang của tập đoàn Hồ chí Minh mới được trao cho Võ nguyên Giáp và Chu văn Tấn phụ trách. Để sau này trung đội trưởng Võ nguyên Giáp và chính trị viên trung đội Chu văn Tấn được Hồ chí Minh phong cho kẻ là đại tướng tổng tư lệnh, kẻ là thượng tướng. Nghiễm nhiên qua hai nhân vật này mà Hồ chí Minh đã củng cố được quyền lực cá nhân một cách trọn vẹn. Cho nên dù Trung cộng có cho Nguyễn Sơn là một đại tướng của hồng quân Trung hoa trở về thì Hồ chí Minh vẫn chỉ gắn cho lon trung tướng, đứng sau cả Chu văn Tấn lẫn Võ nguyên Giáp và cử vào khu 4 (cũ) cho cách xa với biên giới Việt Nam.

Bước vào chiến dịch Điện biên phủ 1954, để tranh thủ sự ủng hộ hết mình của Trung cộng và cũng để ngăn ngừa dần uy tính và quyền lực của Võ nguyên Giáp, Hồ chí Minh đã lôi Nguyễn chí Thanh từ khu Năm ra, cho đeo lon đại tướng, giữ chức chủ nhiệm tổng cục chính trị kiêm phó bí thư quân ủy trung ương, phụ trách cả về tổ chức trong quân đội. Để một đại tướng đi học trường Tây thuộc địa (Albert Sarraut), có cử nhân luật đứng chung mâm cỗ với một đại tướng xuất thân cố nông và thiếu học lại còn ghét nhau như chó với mèo, cho nên Hồ chí Minh không còn sợ quân đội làm phản.

Sau chiến thắng Điện-biên phủ 1954, uy tín của đại tướng Võ nguyên Giáp lên như cồn ở cả trong nước và ngoài nước. Bởi vì lúc đó ít ai biết rằng Điện-biên phủ của Võ nguyên Giáp có mặt các cố vấn Trung cộng là tướng La quy Ba về tổ chức và đại tướng Trần Canh cùng nguyên soái Vi quốc Thanh chỉ đạo về chiến dịch và tác chiến. Vì thế, thông qua bàn tay của của đại tướng cố nông Nguyễn chí Thanh, Hồ chí Minh đã tỉa bớt vây cánh của Võ nguyên Giáp. Đó là việc các đại tá Lê Minh Nghĩa, chánh văn phòng bộ quốc phòng; đại tá Đỗ đức Kiên, cục trưởng tác chiến; đại tá Lê trọng Nghĩa, cục trưởng quân báo... bị bắt. Trước đó là việc đề cử Văn tiến Dũng vào ghế tổng tham mưu trưởng thay chỗ của Hoàng văn Thái, một trung tướng được coi là thân cận nhất của Võ nguyên Giáp, và ghế chủ nhiệm tổng cục hậu cần thì vào tay thiếu tướng Nguyễn thanh Bình, cháu rể của Lê đức Thọ (sau này Nguyễn thanh Bình, dưới thời Nguyễn văn Linh, leo lên ghế ủy viên bộ chính trị, phụ trách thường trực ban bí thư).

Cần nhớ rằng, từ lúc đảo chính lật đổ chính phủ Liên hiệp Hồ chí Minh đã quân phiệt hóa chính phủ của ông ta. Cụ thể là : đại tướng Võ nguyên Giáp là phó thủ tướng kiêm bộ trưởng quốc phòng; đại tá Phạm Hùng, phó thủ tướng phụ trách tài mậu; đại tá Hà kế Tấn, bộ trưởng bộ thủy lợi; thiếu tướng Phan trọng Tuệ, bộ trưởng bộ giao thông và bưu điện; thiếu tướng Ngô minh Loan, bộ trưởng bộ công nghiệp nhẹ; thiếu tướng Lê Liêm, thứ trưởng thứ nhất kiêm bí thư đảng đoàn bộ văn hóa (bộ trưởng Hoàng minh Giám chỉ là bù nhìn); thiếu tướng Đỗ Mười, phó thủ tướng; các trung tướng Phạm Kiệt và thiếu tướng Viễn Chi, đại tá Nguyễn công Tài giữ ghế thứ trưởng bộ công an; thiếu tướng Dương quốc Chính, bộ trưởng bộ nội vụ (còn có tên là thiếu tướng Lê hiến Mai, phó chủ nhiệm tổng cục chính trị); trung tướng Hoàng văn Thái và đại tá Nguyễn văn Quạn giữ các ghế chủ nhiệm và phó chủ nhiệm ủy ban thể dục thể thao trung ương; thiếu tướng Trần đại Nghĩa, phó chủ nhiệm ủy ban khoa học nhà nước; thượng tướng Chu văn Tấn, phó chủ tịch quốc hội; trung tướng Trần tử Bình, đại sứ đặc mệnh toàn quyền tại Trung cộng; thiếu tướng Thiết Hùng, đại sứ đặc mệnh toàn quyền tại Bắc Hàn; thiếu tướng Trần Sâm, bộ trưởng bộ vật tư v.v... Và, ngay cái gọi là hội đoàn quan trọng cũng do quân đội nắm giữ như đại tá Nguyễn đình Thi, tổng thư ký hội liên hiệp văn học nghệ thuật; đại tá Đỗ Nhuận, tổng thư ký hội âm nhạc; trung tá Hà minh Tuân, giám đốc Nhà xuất bản văn học. Ngay cả Vũ Kỳ, thư ký riêng của Hồ chí Minh cũng là thiếu tướng. Sự thật là thế đấy, nhưng cả trong nước lẫn ngoài nước ít ai quan tâm đến tính chất quân phiệt của chính quyền Hồ chí Minh từ đó cho đến tận bây giờ.

Lính và công an là công cụ chuyên chính của tập đoàn cộng sản tiếm quyền, là chỗ dựa để họ có thể tồn tại. Cho nên cả Nga-xô và Trung-cộng đều muốn vươn tay nắm lấy lực lượng vũ trang của chư hầu. Đó là việc thiếu tướng hồng quân Nga-xô Phùng chí Kiên được cho về Việt Nam cũng như tướng Trung cộng Nguyễn Sơn vậy. Ở trong nước thì từ Hồ chí Minh cho đến Lê Duẩn, rồi Nguyễn văn Linh và nay là Đỗ Mười, tất cả đều cố nắm lấy binh lính và công an, càng độc quyền bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Đấy chính là nguyên nhân khiến cho dưới chế độ cộng sản một số nhân vật trong lực lượng vũ trang được nhảy vượt cấp nhanh như tên lửa, kiểu như Võ nguyên Giáp, Nguyễn chí Thanh, Lê đức Anh, Lê khả Phiêu v.v... và số khác thì bị chết không kèn không trống như Đặng kim Giang, Chu văn Tấn, Nguyễn văn Vịnh v.v... hoặc chết một cách mờ ám như Phùng chí Kiên, Nguyễn Bình, Nguyễn chí Thanh, Hoàng văn Thái, Lê trọng Tấn v.v...

SỰ ĐỘC TÀI CỦA HAI CHÀNG HỌ LÊ

Có một số người ly khai đảng cộng sản Việt Nam đã viết sách phê phán những sai lầm của tập đoàn cầm quyền chóp bu của đảng cộng sản nhưng vẫn tránh né kẻ phạm tội lớn nhất là Hồ chí Minh. Thậm chí qua cách mô tả của những vị ấy thì Hồ chí Minh cũng bất lực trước sự “tả khuynh” của tay chân như Lê Duẩn, Trường Chinh, Lê đức Thọ v.v... Thậm chí trong cuộc họp của trung ương đảng Hồ chí Minh còn bị thiểu số tán thành như về biểu quyết Nghị quyết 9 (khóa 3) chẳng hạn. Có thể các vị đó đã mô tả đúng sự thật của hiện tượng và qua hiện tượng đó mà đồng nhất với bản chất của sự việc. Mà cũng có thể vì còn nằm trong sự quản lý của cộng sản nên “tạm thời” nhắm mắt làm ngơ một số sự việc cụ thể để núp dưới cái thây ma của Hồ chí Minh mà “đấu tranh” với đệ tử của ông ta. Nhưng thật là khó hiểu khi có vị úp mở đề nghị “không nhắc đến những người đã quá cố vì họ không có khả năng tự bảo vệ nếu họ bị lên án”(!) Kiểu lý luận này có lẽ nên đốt hết các sách nói về từ Tần thủy Hoàng đến Hitler, Staline và ở Việt Nam thì đừng “nhắc đến” Lê chiêu Thống, Nguyễn Ánh và Hồ chí Minh v.v... Vậy mà vị đó hay khoe kiến thức, “nhắc đến” đủ cả Marx, cả v.v..!!!

Chỉ cần một sự thông minh bình thường, một sự can đảm vừa đủ và chịu khó quan sát thì sẽ thấy Hồ chí Minh chính là một thứ Staline ở Việt Nam. Cái trò khóc trong “sai lầm” của cải cách ruộng đất rồi tự “giáng chức” của mình chẳng khác nào kiểu Tào Tháo tự cắt râu để trừng phạt việc để ngựa dẫm vào lúa của dân. Cả cái bộ xậu chóp bu của cộng đảng khi đứng trước Hồ chí Minh đều ngoan như cừu non trước sói dữ. Có hai người duy nhất là Hồ chí Minh không gọi bằng chú và xưng là bác, đó là ông già Tôn đức Thắng, lớn hơn Hồ chí Minh hai tuổi và người thứ hai là Lý Ban, ủy viên dự khuyết trung ương của đảng cộng sản Việt Nam nhưng lại là ủy viên trung ương chính thức của Trung cộng. Vì thực chất Lý Ban là phái viên của Mao bên cạnh Hồ. Cho nên Hồ chí Minh gọi Lý Ban là tiên sinh. Còn tất cả đều bị gọi là “chú” và tự xưng là “bác” hoặc “bác Hồ”. Với nhân dân thì dù từ đứa trẻ sơ sinh cho tới cụ già bằng tuổi anh cả của mình, Hồ chí Minh đều xưng là bác và ngang ngược đến mức các bài viết công khai đều ký tên là “Bác Hồ” (nếu ai đó cố quên thì hãy xem lại báo Nhân dân lúc Hồ còn sống thử xem, hay là điều này cũng không nên “nhắc đến”?). Khái niệm “Bác” của Hồ chí Minh chính là đồng nghĩa với “Trẫm” hoặc “Cô” của các vua ngày xưa vậy!

Với những người cách mạng chân chính, muốn có sự công bằng ở nông thôn Việt Nam thì “cải cách ruộng đất” là cần thiết và cách thức đã tiến hành cải cách ruộng đất là sai lầm. Nhưng, với Hồ chí Minh thì “cải cách ruộng đất” là cái bánh vẽ còn cách thức tiến hành cải cách ruộng đất là thủ đoạn để củng cố quyền lực cá nhân; hạn chế uy tín và anh hưởng của một số nhân vật cộng sản như Trường Chinh, Hoàng quốc Việt; vùi dập các đảng phái, các tôn giáo, các nhân sỹ trí thức yêu nước khác nhằm vô hiệu hóa quốc hội khóa 1, trấn áp các thành viên chính phủ Liên hiệp không là cộng sản để làm đảo chính nhẹ nhàng chuyển giao quyền lực của một chính quyền liên hiệp đa đảng vào tay cộng sản độc đảng trị.. Và, Hồ chí Minh đã nắm trong tay quyền lực tuyệt đối : chủ tịch đảng cộng, chủ tịch nước, chủ tịch hội đồng quốc phòng và thủ tướng chính phủ !!! Đó là một sự thật cần phải “nhắc đến”. Cho nên nếu quả thực Hồ chí Minh thực tâm nhận thâý cách thức tiến hành cải cách ruộng đất sai lầm thì chẳng cần chảy nước mắt cá sấu và tự cách chức (mà vẫn cứ là nhân vật số 1 tuyệt đối, vì Hồ không làm chủ tịch đảng cộng, lùi xuống làm tổng bí thư đảng cộng, nhưng có ai khác ngồi vào cái ghế chủ tịch đảng cộng đâu; Hồ vẫn là chủ tịch nước, chủ tịch hội đồng quốc phòng và thủ tướng chính phủ). Mà, cùng với việc sửa sai ở nông thôn cũng như hạ chức một số nhân vật như Trường Chinh (thôi chức tổng bí thư đảng cộng nhưng vẫn là ủy viên bộ chính trị và chủ tịch quốc hội); Hoàng quốc Việt (từ dự khuyết bộ chính trị xuống ủy viên trung ương đảng cộng); Hồ viết Thắng (thôi là ủy viên trung ương đảng cộng); Nguyễn đức Tâm (thôi là ủy viên dự khuyết trung ương) v.v... thì phải chí ít cũng giữ nguyên chức cho các vị đã có công phát hiện ra sai lầm trong tiến hành cải cách ruộng đất như bộ trưởng tư pháp Vũ đình Hòe; luật sư Nguyễn Mạnh Tường, chủ tịch hội luật gia, ủy viên trung ương Mặt trận Liên Việt; thứ trưởng bộ Văn hóa Đỗ đức Dục và v.v... chứ có đâu lại thải hồi luật sư Nguyễn mạnh Tường, cất chức thứ trưởng của ông Đỗ đức Dục, xóa bỏ bộ tư pháp và huyền chức bộ trưởng của ông Vũ đình Hòe, cũng như ra lệnh không cho các đảng Dân chủ và Xã hội được kết nạp đảng viên mới. Đã thế lại còn thành lập một chi bộ cộng sản ngay trong lòng các đảng Dân chủ và Xã hội để lãnh đạo... “đảng bạn”!!! Trong khi đó Hoàng quốc Việt giữ chức chủ tịch Tổng công đoàn kiêm chủ tịch Mặt trận Liên Việt; Hồ viết Thắng sau đó giữ chức bộ trưởng bộ lương thực và thực phẩm (thay Ngô minh Loan) rồi lại sang làm bí thư đảng đoàn của ủy ban Khoa học và Kỹ thuật; còn Nguyễn đức Tâm từ chức tổng cục trưởng tổng cục thống kê chuyển ra lên chức bí thư tỉnh ủy Quảng Ninh để đến khóa 6 cộng đảng leo lên ủy viên bộ chính trị, ủy viên ban bí thư, phụ trách trưởng ban tổ chức trung ương (giữ cái ghế của Lê đức Thọ) và nay già khọm mà vẫn được là cố vấn cho ban chấp hành đảng cộng nữa kia. Đây cũng là một sự thật rành rành dù mù mà không điếc thì cũng nghe loa phát thanh ông ổng cả ngày hay điếc mà không mù thì sách báo nào cũng nói đến, viết đến những điều đó. Vậy có nên “nhắc đến” không, hay vì Hồ chết không thể tự bào chữa thì nên quên đi cho có vẻ công bằng và quân... tử ?(!)

Hồ chí Minh là kẻ đem mầm bệnh AIDS cộng sản vào Việt Nam. Cũng chính Hồ chí Minh là kẻ nghĩ ra và tổ chức cuộc đảo chính của cộng đảng lật đổ chính phủ Liên hiệp, vô hiệu hóa quốc hội khóa 1, phản bội lại nguyện vọng của toàn dân Việt Nam, phản bội các đảng phái quốc gia, các tổ chức tôn giáo, các nhân sỹ trí thức yêu nước để tiếm quyền thống trị ở Việt Nam, dựng nên một mô hình chính quyền độc tài toàn chế, hiếu chiến, khát máu mà lịch sử Việt Nam chưa từng có.

Khi Hồ chết, đã để lại cẩm nang cai trị độc tài cho hai anh chàng họ Lê. Đó là Lê Duẩn và Lê đức Thọ. Hai người này đều do Hồ chí Minh “giới thiệu”, Lê Duẩn thì giữ ghế bí thư thứ nhất đảng cộng hộ Hồ vì Hồ “quá bận” nên trở lại làm chủ tịch đảng; còn Lê đức Thọ thì từ cái ghế phó ban tổ chức trung ương (dưới Lê văn Lương, là người thân cận của nhóm Trương Chinh, Hoàng quốc Việt) nhảy lên ghế trưởng ban tổ chức trung ương, làm xếp của Lê văn Lương; chẳng qua bầu bán gì. Đã thế Lê Duẩn lại còn được Hồ chỉ định giữ thêm ghế bí thư quân ủy trung ương với hai phó bí thư là Võ nguyên Giáp và Nguyễn chí Thanh, nghĩa là Võ nnguyên Giáp “tự dưng” từ ghế bí thư quân ủy tụt xuống phó bí thư cho ngang với Nguyễn chí Thanh, tuy rằng vẫn còn là bộ trưởng quốc phòng và đại tướng tổng tư lệnh. Cho nên ai đó không muốn “nhắc đến” sự thật trên mới ngộ nhận cho rằng Hồ ưu ái định đưa Võ nguyên Giáp lên ghế tổng bí thư cộng đảng vì thấy Võ nguyên Giáp có uy tín lớn, đã thay mặt đảng trấn an được lòng dân sau “sai lầm” của cải cách ruộng đất. Sự thực là vì thấy Võ nguyên Giáp có uy tín cao nên Hồ chí Minh mới để Lê Duẩn vào ghế bí thư thứ nhất và cho chiếm luôn ghế bí thư quân ủy của Võ nguyên Giáp. Đưa Võ nguyên Giáp ra thay mặt đảng xin lỗi về “sai lầm” cải cách ruộng đất là Hồ chí Minh muốn kiểm tra lại mức độ uy tín của Võ nguyên Giáp với nhân dân như thế nào để quyết định có lợi nhất cho sự độc tài của bản thân. Lê Duẩn được Hồ chí Minh lựa chọn vì : 1) bản thân Lê Duẩn không có uy tín lớn trong đảng cộng như Trường Chinh, Lê văn Lương, Hoàng quốc Việt, nhất là chẳng có tí công lao nào trong cái gọi là cách mạng tháng tám (vì Lê Duẩn lúc đó vẫn còn bị tù ở Côn đảo); 2) ngay từ dưới thời Nguyễn văn Cừ làm tổng bí thư cộng đảng thì trong báo nội bộ, Lê Duẩn là người đầu tiên đã viết bài ca ngợi Hồ chí Minh, trước cả Trường Chinh, Võ nguyên Giáp và nhà thơ “ống đu đủ” Tố Hữu.

Đặt Lê Duẩn vào chức vụ quan trọng nhất của đảng và của quân ủy, Hồ chí Minh biết rằng Lê Duẩn thiếu chân rết làm chỗ dựa, vì thế đã đưa Lê đức Thọ vào ghế trưởng ban tổ chức trung ương để tạo dựng vây cánh cho Lê Duẩn. Bởi vì Lê đức Thọ là người có công “phát hiện” ra Lê Duẩn bị xếp bất hợp lý ở chức trưởng phòng dân quân Nam bộ, đã giới thiệu và ủng hộ Lê Duẩn vào ghế bí thư trung ương cục miền Nam. Về tình cảm thì còn đi xa hơn nữa. Đó là nữ “thư ký riêng” của Lê đức Thọ được giới thiệu sang làm thư ký cho Lê Duẩn và sau đó thành bà vợ hai của Lê Duẩn. Còn cô gái miền Nam xinh đẹp được tổ chức giới thiệu làm thư ký cho Lê Duẩn thì Lê đức Thọ nhận về “đào tạo lại” và lấy làm vợ hai của mình. Cả hai đều “đạo đức cách mạng sáng ngời”, đều nói thì “giải phóng phụ nữ, một vợ một chồng” nhưng bản thân lại theo chế độ đa thê, nghĩa là nói một đằng làm một nẻo hệt như Hồ chí Minh vậy. Đây cũng là một sự thật rành rành, rất nên “nhắc đến”.

Vị viết sách “khuyên” rằng không nên “nhắc đến” người đã chết lại còn tài đến mức đoán được ý nghĩ của Hồ trong thâm cung cân nhắc, nặng về phía Lê Duẩn hơn Võ nguyên Giáp vì tuy rất yêu Võ nguyên Giáp nhưng Lê Duẩn lại có “thâm niên” ở tù ! Nếu quả là có sự lựa chọn mà tiêu chuẩn phải ỡ tù nhiều năm và được Hồ yêu thì tại sao không lựa Phạm văn Đồng ? Ai cũng biết Phạm văn Đồng ở đủ các nhà tù, kể cả Côn đảo, lâu không kém gì Lê Duẩn, lại còn bị lao teo một bên phổi (hơn Lê Duẩn rồi đấy), lại cũng là ủy viên bộ chính trị, lại là phó của Hồ trong cái ghế phó thủ tướng kiêm bộ trưởng ngoại giao, lại là người đi theo Hồ suốt nhiều năm tháng khi Hồ bôn ba bên Tàu (hơn cả Lê Duẩn và Võ nguyên Giáp) và được Hồ yêu “công khai” đến mức ai đã ở Bắc Việt Nam từ 1954-1969 đều biết.

Dám nhìn thẳng vào cuộc đời hoạt động của Hồ chí Minh sẽ thấy rằng Hồ bao giờ cũng nghĩ và làm thế nào để đưa lợi ích cho bản thân trước hết, hoàn toàn gạt chuyện tình cảm ra ngoài. Một thí dụ rõ nhất là việc Hồ chỉ điểm cho thực dân Pháp bắt cụ Phan bội Châu. Hồ đã tạo ra nhóm Lê Duẩn, Lê đức Thọ chính là để quân bình với lực lượng Trường Chinh, Lê văn Lương, Hoàng quốc Việt trong đảng và với Võ nguyên Giáp trong quân đội. Hai phe tự kiềm chế nhau khiến Hồ xử dụng cả hai phe lúc hơi “tả”, lúc hơi “hữu” để giữ yên cái ghế độc tài của Hồ, né mọi toan tính của cả Kremlin lẫn Bắc-kinh làm ảnh hưởng đến quyền lực của Hồ.

Từ khi được Hồ chí Minh cất nhắc, hai anh chàng họ Lê ra sức củng cố lực lượng, cả trong Nam, cả ngoài Bắc. Quân đội, công an và cơ quan tuyên huấn được quan tâm đến nhiều và trước nhất. Mua chuộc một số chân tay của Trường Chinh như Tố Hữu, Hoàng Tùng. Hoán chỗ một số khác như chuyển thiếu tướng Ngô minh Loan, đang là thứ trưởng bộ công an, sang bộ công nghiệp nhẹ; đưa tướng Trần Độ (nguyên là bảo vệ của Trường Chinh) vào Nam; đưa trung tướng Trần tử Bình sang làm đại sứ tại Tàu cộng, thiếu tướng Thiết Hùng sang làm đại sứ Bắc Cao-ly. Các tướng Vương thừa Vũ, Trần quý Hai cho ngồi chơi xơi nước; trung tướng Đặng kim Giang cho vào tù; quản thúc trung tướng Nguyễn văn Vịnh trong tòa biệt thự ở đường Cao bá Quát (Hà-nội) v.v... Các đệ tử ruột của Võ nguyên Giáp cũng bị cho đi Nam như trung tướng Hoàng văn Thái, các thiếu tướng Lê trọng Tấn, Vũ Lăng v.v... Lôi kéo được nhóm như thượng tướng tổng tham mưu trưởng Văn tiến Dũng; trung tướng Song Hào (chủ nhiệm tổng cục chính trị sau Nguyễn chí Thanh); thiếu tướng Lê hiến Mai, phó chủ nhiệm tổng cục chính trị; Phùng thế Tài, tổng tham mưu phó kiêm tư lệnh phòng không không quân và v.v... Dùng Trần hữu Dực, ủy viên trung ương đảng làm phó thủ tướng kiêm trưởng ban nội chính để kèm Trần quốc Hoàn là bộ trưởng công an, ủy viên dự khuyết bộ chính trị. Đỗ Mười được nâng lên ghế phó thủ tướng, còn cái ghế bộ trưởng nội thương được trao cho cháu rể Lê đức Thọ là Nguyễn thanh Bình (sau sang nắm bộ thủy lợi). Tướng Đinh đức Thiện, em ruột của Lê đức Thọ, được trao ghế chủ nhiệm tổng cục hậu cần. Khu tự trị Việt Bắc tuy trong tay các đàn em của Trường Chinh là thượng tướng Chu văn Tấn và thiếu tướng Bằng Giang, nhưng trái tim của khu tự trị Việt Bắc là khu gang thép Thái Nguyên lại do tướng Đinh đức Thiện làm bí thư đảng ủy ! Tuy chỉ đeo lon đại tá, nhưng Phạm Hùng được đưa vào bộ chính trị và ngồi bên cả đại tướng Võ nguyên Giáp, đồng thời giữ ghế phó thủ tướng phụ trách tài mậu (tài chính và mậu dịch). Quảng Ninh là một tỉnh biên giới với Trung cộng, lại là vùng than đá, mảnh đất tập trung của “giai cấp công nhân” đột nhiên được đón nhận một cán bộ miền Nam tập kết còn nằm trong ẩn số là Nguyễn thọ Chân ra làm bí thư tỉnh ủy, thay cho Hoàng Chính, một đệ tử ruột của Trường Chinh, bị kéo về trung ương ngồi đánh... cờ tướng cả ngày. Sau đó Nguyễn thọ Chân được đưa qua Nga-xô làm đại sứ đặc mệnh toàn quyền thì tay đao phủ của cải cách ruộng đất, đã bỏ Trường Chinh thờ hai chàng họ Lê, là Nguyễn đức Tâm, được cho giữ chức bí thư tỉnh ủy !

Cái mầm độc tài Hồ chí Minh bén rễ, nảy cành; cái mầm bệnh Aids cộng sản do Hồ chí Minh lây truyền, đã làm mất khả năng đề kháng trên mọi bình diện, những gì là truyền thống Việt Nam, được bắt đầu và phát triển như sơ lược tóm tắt ở trên. Đấy là những sự thật rành rành mà ai cũng có thể đọc được trong các sách báo của cộng sản ở Việt Nam “sản xuất”, chắc chắn là đã có tô hồng và bóp méo rồi đấy. Nếu nghe theo “nhà cách mạng cơ hội” mà không “nhắc đến” thì chẳng cứ lứa tuổi thanh niên của người Việt Nam ở hải ngoại mà ngay cả ở trong nước cũng sẽ chẳng biết đến những sự thật đã là nguyên nhân khiến Việt Nam nghèo khổ như ngày nay và v.v... Không “nhắc đến” những sự thật đó, có lợi cho ai, có hại cho ai ? Mọi người có thể thấy rõ diện mạo của cái vị tự phong đủ mọi thứ cho mình.

Tổ tiên chúng ta đã dạy phải “ôn cố tri tân”. Nếu bỏ quên những bài học lịch sử mà không “nhắc đến” thì chắc chắn thế hệ thứ ba của người Việt Nam chúng ta hiện nay và cả thế hệ thứ tư nữa, cũng sẽ lại tiếp tục rơi vào tay các loại cạm bẫy của cộng sản, chỉ vì đi theo tấm bảng chỉ đường của các loại cò mồi, cơ hội, hoạt đầu chính trị đang ra sức vo ve như ruồi nhặng, trước bộ xương gầy còm cõi của Việt Nam, đang bị tụi mại bản đỏ Đỗ Mười - Lê đức Anh - Võ văn Kiệt câu kết với các ngoại bang xanh, đỏ để bòn tỉa và hút máu.

CÓ CHẾT NHƯNG KHÔNG BÍ ẨN

Đảng cộng sản Việt nam vẽ ra cho mình mấy ngày thành lập. Lúc thì ngày 6-1, lúc thì 3-2.

Hồ chí Minh vẽ ra mấy di chúc để tiện dùng cho các đệ tử, tùy thời, tùy lúc.

Bộ chính trị cộng sản vẽ cho Hồ mấy ngày chết. Lúc thì ngày 3-9, bây giờ lại là 2-9. Và v.v..., hàng vạn thứ vẽ !!!

Cộng sản là thế đấy. Cái gì cũng mập mờ và bí ẩn. Nhưng thực ra thì tất cả đều tào lao, cũng như cái chết của các tướng Hoàng văn Thái, Lê trọng Tấn, Đinh đức Thiện và Phan Bình vậy.

Đại tướng Hoàng văn Thái là sui gia với đại tướng Võ nguyên Giáp. Quen biết nhau từ khi Võ nguyên Giáp được Hồ chí Minh giới thiệu vào học ở trường quân sự Hoàng Phố (bên tàu) và cho đến ngày Võ nguyên Giáp được trao quyền tư lệnh quân đội thì chính đại tướng Võ nguyên Giáp đã lựa chọn và giới thiệu với Hồ chí Minh để cho Hoàng văn Thái giữ chức tổng tham mưu trưởng. Lúc đó vì cần có sự thống nhất và đoàn kết trong bộ tư lệnh và tham mưu nên Hồ chí Minh chấp nhận để hiệu quả đánh đấm của quân lính được cao nhất. Xung quanh tướng Giáp lúc đó, ngoài Hoàng văn Thái, giữ ghế tổng tham mưu trưởng, còn có các cấp tá xuất thân học sinh, sinh viên như Đỗ đức Kiên, Lê minh Nghĩa, Vũ Lăng, Lê trọng Nghĩa v.v... các tướng thao lược như Thiết Hùng, Vương thừa Vũ v.v... và cả cục trưởng cục tác chiến Trần văn Quang rất cần cù, tận tuỵ (người dính đến báo cáo về tù nhân Mỹ ở Việt Nam sau 1975).

Sau chiền thắng quân lính thực dân Pháp 1954 ở Điện-biên phủ, tiếng tăm của Võ nguyên Giáp lừng lẫy cả ở trong và ngoài Việt Nam. Cho nên Hồ chí Minh đã nghĩ đến việc khống chế viên đại tướng tổng tư lệnh, có tầm thước của Napoléon và cũng rất “mê” Napoléon này, bằng cách tỉa chân tay. Vì thế, ngay 1957, chẳng có lỗi lầm gì mà Hoàng văn Thái (lúc đó là trung tướng) bị giáng chức từ tổng tham mưu trưởng xuống tổng tham mưu phó và Văn tiến Dũng đang là đại đoàn trưởng đại đoàn đồng bằng được đặt lên ghế tổng tham mưu trưởng, đeo lon thượng tướng. Vợ Văn tiến Dũng là Đặng thị Kỳ được ngồi ở ban tổ chức trung ương, dưới trướng Lê đức Thọ.

Những việc công khai đều được đăng trong tiểu sử của Hoàng văn Thái, ngày bị chết, ở hầu hết các báo hàng ngày của cộng sản Việt Nam. Còn những điều riêng tư thì chỉ số ít có dịp “quan sát” mới thấy. Đó là Hoàng văn Thái chẳng hề có tinh thần cởi mở hoặc vì dân, vì nước chút nào. Mà tất cả đều vì cái ghế ngồi của bản thân. Từ sự ngậm miệng ăn tiền, luôn luôn ngoan ngoãn theo cái gậy chỉ huy của cấp trên cho đến quan tâm cả đến những gì mà cấp trên thích thú. Thí dụ : thời gian vào Nam chỉ huy quân lính, Hoàng văn Thái được nghe phổ biến về sự “thống nhất đặc biệt” của ba nước Đông dương cả chính trị, quân sự lẫn kinh tế v.v... Nào là trại bò giống ở Ba Vì (Hà-tây) có nhiệm vụ cung cấp tinh trùng viên để cải tạo toàn thể đàn bò của Việt-Miên-Lào; nào là hết bí thư trung ương đảng cộng Hoành Anh rồi lại ủy viên trung ương đảng cộng Võ thúc Đồng thay nhau lãnh đạo ủy ban nông nghiệp trung ương cùng với bộ trưởng đặc trách kỹ thuật nông nghiệp Nghiêm xuân Yêm và Viện trưởng khoa học nông nghiệp Bùi huy Đáp, có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch trông ngô ở cao nguyên Bô-lô-ven (cứ làm như đấy là đất của cộng sản Việt Nam) v.v... Cả bộ xậu trong bộ chính trị cộng đảng cho đến các nhân vật nòng cốt từ miền Nam ra họp đều thi nhau đi thăm trại bò giống. Hoàng văn Thái cũng thế, có thể cưỡi trực thăng lên Ba-vì, cả ngày âu yếm ngắm những con bò đực nặng gần một tấn, được ăn ở sung sướng gấp ngàn lần cán bộ công nhân viên của trại. Thế nhưng lại không thể có một phút nào rảnh rỗi để thăm hỏi những thương bệnh binh từ Nam chuyển tải ra, mặc dù xương máu của những người đó đã đánh bóng những ngôi sao cấp tướng của Hoàng văn Thái. Cũng giống Võ nguyên Giáp, lúc nào cũng bộ đồ cấp tướng màu cỏ úa sẫm, nếp là thẳng tắp, giày da đen bóng đến có thể soi gương, bộ mặt phì nộn trông hoàn toàn xa lạ với mặt xanh bủng, gầy ốm của binh lính dưới quyền. Hoàng văn Thái có biệt tài là, khác với tướng lãnh khác, không hề lúc hứng chí “làm thơ” hoặc bàn về “văn học nghệ thuật” (như kiểu đại tá Đặng Tính). Hoàng văn Thái chỉ chuyên tâm về quân sự mà nếu có nói và viết thì cũng là những điều cấp trên đã bàn đến như thế, như thế v.v... Chưa bao giờ Hoàng văn Thái dám thắc mắc về những “bão táùp” xảy ra trên đất nước, như tướng Vương thừa Vũ thắc mắc về cách thức tiến hành cải cách ruộng đất; như tướng Đặng kim Giang về vấn đề dân chủ; như trung tướng Nguyễn văn Vịnh về chính sách ở miền Nam hoặc như tướng Tô Ký về việc hành quyết một số tân binh gọi là “vô kỷ luật” v.v... Lúc nào cũng âm thầm, không chơi trội. Đó là đặc tính của Hoàng văn Thái cũng như một đặc tính nữa là rất “cảnh giác cách mạng” cũng như tuy to béo nặng nề mà lại nhanh hơn chuột lắt. Như trong bữa tiệc chiêu đãi cầu thủ bóng đá của các nước Việt Nam (phía Bắc), Bắc Cao-ly và Tàu cộng ở cửa hàng du lịch ở Hà-nội (nhà hàng Ritz cũ ở góc Hàng Khay - Bà Triệu), Hoàng văn Thái chủ trì buổi chiêu đãi với tư cách chủ nhiệm ủy ban thể dục thể thao trung ương. Tiệc đang rôm rả đột nhiên mất điện. Đèn chỉ bị tắt trong khoảng... hai phút thì sáng trở lại. Ấy thế mà khi đèn sáng lại, tất cả đều ngồi yên tại chỗ, kể cả các đại tá Nguyễn văn Quặn, phó chủ nhiệm ủy ban thể dục thể thao trung ương; đại tá Lê Hiền, tư lệnh đơn vị bảo vệ Hà-nội kiêm giám đốc Sở thể dục thể thao Hà-nội và trung tá Ngô Luân, tổng thư ký ủy ban thể dục thể thao trung ương, còn chỗ Hoàng văn Thái thì... bỏ trống. Mọi người ngạc nhiên trước sự biến mất của Hoàng văn Thái thì, bỗng thấy cái thân hình đẫy đà đó, đang núp từ xó cửa cuối phòng ăn, đi ra. Vẫn đường bệ và mặt không hề... biến sắc. Đúng là tướng có khác !

Ngoan ngoãn, an phận, ngậm miệng ăn tiền, cuối cùng thì Hoàng văn Thái cũng bò lên được tước hiệu đại tướng. Nhưng ngoan mà chẳng khôn nên Hoàng văn Thái vào lúc có thể ngồi vào cái ghế bộ trưởng quốc phòng của cộng sản thì lăn quay ra chết - mà theo thân nhân thì là bị mưu sát. Chẳng công bố thì ai cũng biết có bàn tay của Lê đức Thọ và Văn tiến Dũng. Thực ra Hoàng văn Thái chẳng phải là cái gai lớn hoặc ở tầm vóc để nhóm Lê đức Thọ lo ngại. mà vì “cảnh giác cách mạng”, đã gạt Võ nguyên Giáp khỏi chức bộ trưởng quốc phòng, lẽ nào lại để sui gia của tướng Giáp nắm được chức vụ cốt lõi của quân lính, cái bệ của quyền lực. Tốt nhất là cho đi theo họ Hồ để hầu hạ Marx và Lénine.

Đại tướng Lê trọng Tấn cũng vậy. Xuất thân từ thiếu sinh quân (enfant de troupe) của Pháp và đeo lon đội của lính thực dân Pháp ở Việt Nam, Lê trọng Tấn đã đi theo quân đội của chính phủ Liên hiệp kháng Pháp. Khi Hồ chí Minh làm đảo chính để cướp quyền của chính phủ Liên hiệp thì quân đội cách mạng Việt Nam bị biến thành công cụ chuyên chính của cộng sản, trong đó Lê trọng Tấn cũng như mọi người lính khác, trở thành công cụ của Hồ chí Minh và các kẻ kế nghiệp. Có giòng máu lính trong người, Lê trọng Tấn chỉ biết tuân theo thứ bực quân giai. Lê trọng Tấn là một người lính chuyên nghiệp, một thứ thiên lôi, chỉ đâu đánh đấy. Niềm vui lớn lao là được chém giết và được cấp trên khen ngợi. Tất nhiên cũng là đảng viên cộng đảng, nhưng Lê trọng Tấn là mẫu “chuyên” chứ không “hồng”. Khác với cả Võ nguyên Giáp lẫn Hoàng văn Thái, không béo tốt, trắng trẻo của lính văn phòng, Lê trọng tấn trông khắc khổ, rắn rỏi, đúng là mẫu lính đánh đấm ngoài chiến trường. Đúng là một mẫu người máy... không tim. Một thí dụ : sau khi theo tinh thần hiệp định Genève 1954 về Việt Nam, tập đoàn cộng sản Hồ chí Minh được tạm quyền quản lý phía Bắc Việt Nam cho đến vĩ tuyến 17. Trong vùng của Hồ chí Minh kiểm soát, tai họa bi đát giáng xuống đầu người dân Việt Nam. Nào sóng thần ở Đồ Sơn cuốn cả xã ra biển. Nào vỡ đê Mai Lâm. Nào dịch rầy nâu, Nào bão. Nào hạn hán kéo dài. Nào dịch cúm, dịch sốt xuất huyết. nào dịch trâu bò lở mồm, long móng v.v... Cùng với những tai họa đó là những dịch “cách mạng” đủ kiểu của tập đoàn Hồ chí Minh nặn ra. Thôn quê, thành thị tiêu điều. Nhà tù mới mọc lên như nấm. Nhiều người bị tù mà chẳng được biết phạm tội gì với dân, với nước. Trong số đó có anh ruột của Lê trọng Tấn . Khi chị dâu và các cháu đến năn nỉ Lê trọng Tấn - lúc đó là một thiếu tướng cộng sản sáng giá - để can thiệp cho biết anh của Lê trọng Tấn đi tù vì tội gì và phải tù bao lâu thì được Lê trọng Tấn thản nhiên trả lời, đại ý :”Cách mạng đã bắt thì chắc chắn phải có tội. Còn được tù bao lâu là tùy thái độ học tập cải tạo ra sao, có thấy tội lỗi với “Đảng”, với “Bác” không, có ăn năn gột bỏ tội lỗi không, có đầu hàng giai cấp công nhân không và có chịu tiếp thu tư tưởng cách mạng của giai cấp công nhân không ?” Lê trọng Tấn là như thế đó và người anh ruột của Lê trọng Tấn đành nằm ở hết các trại tù Suối Hai cho đến Ấm Thượng để “ăn năn, gột bỏ tội lỗi” mà chẳng biết là tội gì, cho nên bị tù “không tội” ngót 10 năm trời. Với anh ruột còn như vậy nên tất nhiên xương máu lính dưới quyền chỉ là người dưng, nước lã thì còn có nghĩa lý gì. Lê trọng Tấn chỉ thích có chiến tranh để được... đánh nhau, dù là loại chiến tranh gì đi nữa.

Được thực dân Pháp đào tạo từ nhỏ trong kỷ luật lính... thực dân; được cộng sản truyền cho máu sát nhân; được qua Nga-xô học tập thêm về kiến thức chiến tranh hiện đại, Lê trọng Tấn là một mẫu lý tưởng của tướng cộng sản. Sau khi hoàn thành cuộc vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam và áp đặt thể chế chính trị cộng sản lên cả nước Việt Nam, theo lệnh của Kremlin, Lê trọng Tấn được cử sang Nga-xô báo cáo về diễn biến và kết quả của cái gọi là “chiến dịch Hồ chí Minh”. Báo cáo của Lê trọng Tấn được các quan chức ở Kremlin đánh giá rất cao cũng như họ nhìn nhận tài năng quân sự của Lê trọng Tấn. Đấy chính là cái mầm chết mờ ám của Lê trọng Tấn sau này, mặc dù Lê trọng Tấn được gắn lon đại tướng và chút xíu nữa thì ngồi ghế bộ trưởng quốc phòng của cộng sản Việt Nam, nếu không... chết ngang xương !!!

Sau khi Lê trọng Tấn chết được vài tháng thì đến lượt trung tướng Đinh đức Thiện, ủy viên trung ương đảng cộng, chủ nhiệm tổng cục hậu cần, phó tổng tham mưu trưởng kiêm bộ trưởng dầu khí cũng lăn quay ra chết.

Đinh đức Thiện tên họ thật là Phan đình Dinh, em ruột của Lê đức Thọ (Phan đình Khải) và là anh ruột của Mai chí Thọ (Phan đình Đống). Dư luận hành lang đồn rằng chính Đinh đức Thiện đã nắm giữ một số tù binh Mỹ để phục vụ trong công tác nghiên cứu về hậu cần cho binh lính cộng sản Việt nam.

Anh em nhà Lê đức Thọ, Đinh đức Thiện và Mai chí Thọ là điển hình của cộng sản Việt Nam về gia đình trị như kiểu anh em nhà Fidel Castro ở Cuba; cha con nhà Kim nhật Thành ở Bắc Cao-ly hay vợ chồng, con cái Lâm Bưu của Tàu cộng.

Lê đức Thọ nắm trong tay các chức vụ : ủy viên bộ chính trị kiêm ủy viên ban bí thư cộng đảng, ủy viên quân ủy trung ương, ủy viên hội đồng quốc phòng, trưởng ban tổ chức trung ương, phụ trách luôn cả về an ninh, tình báo. Là loại hoạt đầu chính trị vừa tàn bạo vừa tham quyền, không thủ đoạn nào mà không dám làm; tính tình điềm đạm. Hai con mắt sắc lạnh lùng và cười với hàm răng xin xít, những cái răng to như răng ngựa. Có lẽ Lê đức Thọ chỉ thực sự “sợ” có hai người là Hồ chí Minh và bà vợ hai xinh đẹp của Lê đức Thọ. Khi bà vợ hai này đẻ nằm ở bệnh viện C (Hà-nội), dù bận trăm công nghìn việc, Lê đức Thọ vẫn đều đặn ngày hai buổi vào bệnh viện thăm vợ, săn sóc trong hai bữa ăn chính.

Mai chí Thọ là em út trong gia đình Lê đức Thọ, được lôi từ cái ghế bí thư khu ủy khu 8 về lãnh đạo ngành công an ở khu vực miền Nam cùng với Lâm văn Thê, sau này ở phía Bắc bổ xung thêm Nguyễn công Tài. Mai chí Thọ trông tốt tướng hơn Lê đức Thọ và cuộc đời tình ái cũng rất hoang đàng, bắt bồ phần lớn trong giới nghệ sỹ cả kim cả cổ, tuy chính thức chỉ một vợ chứ không đa thê như Lê đức Thọ.

Tướng Đinh đức Thiện thì khác cả anh là Lê đức Thọ và em là Mai chí Thọ. Đây là viên tướng chửi tục, nói nhảm nhất trong binh lính của Hồ chí Minh. Nếu Lê đức Thọ và Mai chí Thọ có tác phong quan cách như mẫu Võ nguyên Giáp, ăn nói bay bướm văn vẻ bao nhiêu, thì ngược lại, Đinh đức Thiện thô lỗ, cục cằn; về ăn mặc, đi đứng thì đúng là mẫu của viên đại tướng Nguyễn chí Thanh, nghĩa là giản dị xuề xòa. Đinh đức Thiện bắt chước tướng Nguyễn chí Thanh cả thói quen giải quyết công việc, tính xục xạo xuống từng đơn vị. Như có lần tướng Đinh đức Thiện đi kiểm tra đột ngột một số binh trạm, kho tàng ở vùng Quảng Trị,đến một binh trạm thì viên thương úy phụ trách binh trạm đi sang một đơn vị nữ thanh niên xung phong chơi, ở nhà chỉ có một thượng sỹ trực. Đinh đức Thiện hỏi tình hình và viên thượng sỹ báo cáo rành mạch các số liệu của binh trạm. Vừa lúc đó viên thượng úy đi chơi về. Đinh đức Thiện đã nhân danh tổng tham mưu phó lột lon của viên thượng úy gắn cho viên thượng sỹ - nhảy một lúc bốn cấp -, và lấy lon của viên thượng sỹ gắn cho viên thượng úy - giáng bốn cấp. Câu chuyện này được truyền nhanh như điện vào suốt các binh trạm hậu cần từ Bắc đến Nam, đã khiến các hạ sỹ quan cố gắng nắm vững tình hình binh trạm, hy vọng có ngày gặp Đinh đức Thiện để nhảy cấp. Còn các chỉ huy binh trạm thì ít ai dám rời binh trạm, tất cả đều sợ viên tướng mắt ốc nhồi râu quai nón này.

Vận dụng “tư tưởng Hồ chí Minh” - đương nhiên được Hồ cho phép - tướng Đinh đức Thiện đã có “sáng kiến” cất dấu vũ khí, xăng dầu, quân nhu v.v... vào đền chùa, nhà thờ, bệnh viện, trường học, khu chung cư của nhân dân. Như thế, nếu Mỹ tiến công vào đó thì dân sẽ bị chết theo và phía cộng sản Hà-nội tha hồ tố cáo Mỹ ném bom bắn phá giết hại dân lành, trẻ em; phá hoại bệnh viện, trường học đền chùa, nhà thờ v.v... Thí dụ như vụ ném bom vào bệnh viện Bạch Mai, vào trường mẫu giáo ở Trạm Chôi (Hà-nội) v.v... vì thật ra những chỗ đó đã được Đinh đức Thiện để lẫn vũ khí, quân nhu. Bệnh viện Bạch Mai bị sập một bộ phận, nhiều người bị chết, trong đó có chị ruột của giáo sư khoa sử trường đại học tổng hợp Hà-nội, là Trần quốc Vượng, một bồi bút hoạt đầu của cộng sản, đã bị Dương thu Hương chửi khéo trong “Anh hùng tỉnh lẻ”. Còn ở trường mẫu giáo ở Trạm Chôi thì cả các cháu bé lẫn cô dạy trẻ, lẫn mẹ các cháu đi thăm con sơ tán bị chết gần hai chục mạng, trong đó có em nhỏ vẫn hát trên đài (ở phiá Bắc trước 1975) bài :

“Bé bé bằng bông
Hai má hồng hồng
Bé đi sơ tán
Bế em đi cùng...”

Phóng viên nước ngoài đã đến quay phim, chụp ảnh những nơi đó và cả trong và ngoài nước Việt Nam đều chửi Mỹ, nhưng người ta đã quên chửi tướng Đinh đức Thiện và các cấp lãnh đạo của hắn.

Đinh đức Thiện là viên tướng ít về thăm vợ con. Những người không biết chuyện thì khen tướng Thiện mẫn cán, lo việc quân quên việc nhà. Sự thật không phải vậy. Nguyên nhân là do tính thô bạo, cục cằn nên có lần Đinh đức Thiện đã đánh đứa con trai duy nhất của mình đến mức bị mù một mắt, điếc một bên tai và trở thành điên điên, khùng khùng. Từ đó Đinh đức Thiện rất hãn hữu mới về nhà vì không dám nhìn đứa con tàn phế do chính mình gây ra.

Thô bạo, cục cằn nhưng Đinh đức Thiện cũng rất ma giáo và biết lợi dụng người khác khá tài tình. Thí dụ, sau 30-4-75, chính Đinh đức Thiện đã biết gọi tiến sỹ Nguyễn văn Hảo làm cố vấn kinh tế cho mình. Trong ban cố vấn còn cả Chung đức Mai. Và, tướng Thiện đã bày trò mở lớp nghiên cứu chính trị cho trí thức miền Nam, có khả đủ các khuôn mặt sắc nước của miền Nam cũ, như phó thủ tướng Nguyễn văn Hảo, thẩm phán tối cao pháp viện Trần thúc Linh, chuẩn tướng Nguyễn hữu Hạnh, dân biểu Ngô công Đức, Lý quý Chung, Kiều mộng Thu (về sau là nhân tình của Xích Điểu - tức Trần minh Tước, từng là tổng thư ký Hội nhà báo của cộng sản Hà-nội), Chung đức Mai v.v..., làm như trí thức miền Nam sắp có chỗ đứng “khả ái” trong xã hội cộng sản ! Có biết đâu, đó là bài bản đầu tiên mà Đinh đức Thiện biểu diễn để xem những trí thức đó “thức” hay “ngủ”, giữa lúc cộng sản còn chưa hoàn toàn làm chủ được về trị an. Cái lớp học mà một bên học sinh là các trí thức có hạng và “giáo sư” chính là me-xừ Vũ Khiêu, mới học hết cấp hai phổ thông trung học; nguyên là giáo viên tiểu học của trường miền núi Lạng Sơn (trước 1945). Sau 1945 vớ được cái ghế chủ nhiệm Việt Minh của thị xã Lạng Sơn, và đến phong trào Nhân văn - Giai phẩm (sau 1954) nhờ vào làm tà-lọt năng nổ ở cửa Tố Hữu nên được lôi cổ lên cái ghế Viện trưởng Viện mỹ học Marx-Lénine !!! Vậy mà cũng phải thảo luận, viết thu hoạch tự xỉ vả bản thân và xỉ vả lẫn nhau. Một số bản thu hoạch đầy ăn năn hối lỗi (đã chậm chấp nhận thân phận nô lệ cho cộng sản) được trích đăng trên báo Đại đoàn kết (Sài-gòn), như bài của thẩm phán Trần thúc Linh, Kiều mộng Thu, Lý quý Chung. Lớp học kết thúc, Đinh đức Thiện cho ra đời cái Hội trí thức yêu nước mà chủ tịch là vị tiến sỹ quê ở Sa-đéc, viết báo khoe thành phần lý lịch rằng bố đẻ làm nghề quét rác ở chợ thị xã Sa-đéc !!! Ô hô ! Thương hại quá thay cho ông tiến sỹ Lê văn Thới !!!

Đinh đức Thiện nổi tiếng nói tục và ngang bướng (chắc ỷ anh em, họ hàng làm lớn) đến độ có lần cùng đi công tác chung với Tố Hữu, ủy viên bộ chính trị kiêm bí thư trung ương cộng đảng phụ trách trưởng ban tuyên huấn trung ương, tướng Thiện vẫn chửi lính, nói tục, khiến Tố Hữu quê với thuộc hạ. Tố Hữu lựa lời nói với tướng Thiện :”Bao giờ anh mới bớt nói tục hả anh Thiện ?”. Tướng Thiện cười vào mặt Tố Hữu mà rằng :”Bao giờ anh thôi làm thơ thì tôi bớt nói tục.” Tố Hữu bẻ mặt, đánh bài lờ. Và để chứng minh tính cách độc đáo của mình, khi trở về qua Nam Hà, gặp một cuộc họp báo của tỉnh, tướng Thiện cười khà khà :

- Tụi mày chỉ dám đăng thơ của anh Tố Hữu, còn thơ của tao có báo nào dám đăng không ?

Rồi tướng Thiện đọc luôn :
“Thế gian nhất đẹp là l...
Nhất ngon là muối, nhất khôn là tiền.”

Và thấy cái ảnh của lão nghệ sỹ nhiếp ảnh Võ an Ninh chụp các nữ xã viên đang hái chè trên đồi chè Đào Giã (Phú thọ), tướng Thiện đề nghị nên chú thích vào tấm ảnh đó như sau :

“Em đi lên núi hái chè
Gặp thằng bỏ mẹ nó đè em ra
Nó bóp rồi nó lại xoa
Ngoảnh đi ngoảnh lại nó đút cái mả cha nó vào !”

Tất nhiên cả hội nghị cười hề hề, kể cả Lê Điền, bí thư tỉnh ủy Nam-hà, người đang chủ trì cuộc họp báo.

“Nhất khôn là tiền”, quả thật đó là sự mơ ước của tất cả những tụi cộng sản chóp bu từ thời kỳ đó, cho đến sau này là các Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Võ văn Kiệt v.v... Đương nhiên trong đó có ba anh em nhà Lê đức Thọ, Mai chí Thọ và Đinh đức Thiện.

Thời gian ở Sài-gòn sau 30-4-75, tướng Thiện đã thường xuyên đến tòa biệt thự của ông Đức Âm, ở đường Gia-long để “chiêm ngưỡng” kho tàng đồ cổ ở đó. Và, cuối cùng thì gần như trọn vẹn đồ cổ của nhà Đức Âm, chủ Đại Nam ngân hàng, lọt hết vào tay Đinh đức Thiện !

Mặc thì xuề xòa, nhưng tướng Thiện ăn và chơi lại hết sức xa hoa, đúng kiểu của Hồ chí Minh. Vốn tính thích đi săn, nên tướng ra Thiện ra lệnh cho tổng cục hậu cần cộng quân sản xuất những loại đạn đặc biệt cho khẩu súng săn đặc biệt để đi săn ngỗng trời, vịt trời trên sông Hồng. Tướng Thiện hay đi săn với tướng Phan trọng Tuệ, bộ trưởng giao thông và bưu điện. Nhà riêng trần thiết như cung điện của vua. Ăn thì ngọc dương, yến sào, bào ngư, gan gà thiến; rượu thì uống rượu ngâm nhung, sâm, cắc kè, rắn hổ v.v... hoặc huyết chim sẻ.

Sau cái chết của đại tướng Lê trọng Tấn ít tháng thì tướng Đinh đức Thiện đột ngột lăn ra chết. Tin chính thống thì nói tướng Thiện ngộ nạn khi đi săn. Nghĩa là bị một viên đạn bắn vào đầu. Cách giải thích đó nghe có vẻ hợp lý vì tướng Thiện là người hay đi săn. Nhưng nó không đầy đủ ở chỗ ai bắn tướng Thiện ? Hay tự tướng Thiện bắn vào đầu mình ? Với cây súng săn dài gần hai mét đó sao ?

Ngót nghét bốn chục năm lăn lộn ngoài chiến trường mà không bị thương vì bom đạn, thế mà cuối đời, trung tướng Đinh đức Thiện, bộ trưởng bộ dầu khí kiêm tổng tham mưu phó cộng quân; kiêm chủ nhiệm tổng cục hậu cần công quân; là ủy viên dự khuyết trung ương cộng đảng từ khóa 3 và đến khóa 4 là ủy viên trung ương chính thức trong số 101 ủy viên chính thức của ban chấp hành trung ương cộng đảng, lại chết vì đạn bắn... vịt trời.

Đúng là quả báo nhãn tiền. Bởi cái sự thật mà cộng đảng Việt Nam cố tình che dấu về cái chết của Đinh đức Thiện cuối cùng cũng lộ ra ngoài. Kẻ bắn chết tướng Thiện chính là đứa con trai duy nhất của tướng Thiện. Đứa con bị tướng Thiện đánh mù mắt, hỏng một tai và trở thành khùng khùng đó đột nhiên lên cơn điên, xách khẩu súng săn mà Đinh đức Thiện đang chuẩn bị đi săn vịt trời, bắn vào đầu Đinh đức Thiện, viên tướng thân cận của họ Hồ, cò bề dày tội ác với nhân dân và đất nước Việt Nam. Thiện mà ác nên phải chết thảm khốc như vậy, lẽ trời thật là công bằng.

Trời công bằng đến mức cha con thiếu tướng Phan Bình cũng bị đạn của “đồng chí” mình hạ sát.

Phan Bình là một viên tướng nắm về tình báo quân đội của cộng sản Việt Nam. Nói một cách khác thì Phan Bình dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Lê đức Thọ.

Từ sau 1975, Lê đức Thọ càng quan tâm đến quân đội nhiều hơn. Từ việc đưa tên đao phủ tàn sát giáo dân ở Ba làng an là Đồng sỹ Nguyên vào bộ chính trị giữ ghế phó thủ tướng đến việc cho Lê đức Anh thoát ra ẩn số để nay leo lên đến chức chủ tịch nước, Lê đức Thọ lo củng cố bộ máy tình báo quân đội, dùng làm công cụ giám sát Miên, Lào cũng như mở rộng sự hoạt động ra các nước láng giềng, bởi Lê đức Thọ không hoàn toàn tin tưởng vào cơ quan an ninh của ngành công an là nơi còn nặng dấu ấn Trần quốc Hoàn và phe cánh Trường Chinh. Chẳng thế mà vụ tên Tàu Hồng-kông in bạc giả ở Sài-gòn bỏ trốn mà an ninh của ngành công an bất lực. Sau phải nhờ đến tình báo quân đội của Phan Bình và Bạch Vân mới tóm được cổ tên in bạc giả đang trên đường lẩn trốn ở đất Miên.

Cũng sau 1975, các vụ âm mưu binh biến của đại tá Huỳnh văn Nghệ cho đến các vụ lớn nhỏ khác, hầu hết do tình báo quân đội phát hiện cho Lê đức Thọ. Việc Văn tiến Dũng ngồi ghế bộ trưởng quốc phòng để bà vợ Đặng thị Kỳ công khai khánh thành các dịch vụ buôn lậu trong quân đội đã tạo ra một loạt các nhà tư sản quân sự đỏ, cho đến việc “cái bí mật về 16 tấn vàng” mà Nguyễn văn Hảo, phó thủ tướng chính quyền Nguyễn văn Thiệu, khoe là đã giữ lại được cho ngân khố “quốc gia” (của cộng sản) cũng như việc mua bán máy bay của Tổng cục hàng không khiến cho viên tướng giữ ghế Tổng cục trưởng bị bắt giam không thời hạn, cho đến những cái chết của các đại tướng Hoàng văn Thái và Lê trọng Tấn, kể cả cái chết đột ngột của Phạm Hùng lúc đang giữ chức thủ tướng mà trong dân gian đã thắc mắc rằng :

“Nghe tin đồng chí Phạm Hùng
Chết ngã lăn đùng, chưa rõ nguyên nhân”.

Chắc chắn đều có bàn tay của Lê đức Thọ. Như thế có nghĩa là bàn tay Lê đức Thọ đã ra lệnh cho bộ hạ thi hành. Là một tướng tình báo quân đội, dưới quyền trực tiếp của Lê đức Thọ, tướng Phan Bình có thể thi hành lệnh của Lê đức Thọ mà cũng có thể là người biết về những “bí ẩn” đó. Đấy là nguyên nhân dẫn đến cái chết của cha con tướng Phan Bình.

Những chuyện nêu trên một lần nữa thức tỉnh toàn dân Việt Nam (và thế giới) rằng mô hình cộng sản ở Việt Nam là như thế nào. Thân phận người dân đã đành, đến như thân phận của lính và công an, là công cụ chuyên chính của tập đoàn cộng sản chóp bu tiếm quyền, cũng chỉ là những con tốt đen sẵn sàng bị thí bỏ vì một nước cờ nào đó của tụi tiếm quyền.

Những kẻ đã chết, dù bị “đồng chí mình” làm thịt hay bị con đẻ bắn chết, đều chưa xứng tội ác của họ đối với nhân dân Việt Nam. Họ là những tên đao phủ tự nguyện, đã giết hại biết bao thanh niên ưu tú của cả hai miền của Việt Nam. Trong họ, chưa một ai là viên tướng chân chính, vì cả bọn đều lợi dụng tình nghĩa đồng bào để đánh lừa những người đối lập, đẩy vào ngục tù một cách hèn hạ. Những tướng lãnh của từ Trần Hưng Đạo, Lê Lợi đến Quang trung cũng không tàn bạo với quân xâm lược phương Bắc bại trận mà đều hành xử đúng tinh thần thượng võ và nhân đạo.

Kẻ chết cũng đã chết rồi, nhưng kẻ sống vẫn còn đang gây tội. “Nhắc đến” kẻ đã chết để cùng nhau tỉnh táo đừng để “kẻ sống” lừa phỉnh, chia rẽ mà làm suy yếu lực lượng dân chủ, tự do ở cả trong và ngoài Việt nam.
 

Việt Thường - 1992