„CUỘC CHIẾN KHÔNG CHIẾN TUYẾN“ hay „NÓI LÁO KHÔNG BIẾT NHỤC“?
CỦA ĐÀI ZDF CHLB ĐỨC VỀ CHIẾN TRANH VIÊT NAM.
Trình chiếu trên kênh truyền hình „ZDF-info“ tại Đức ngày 01.03.2013
Seattle 03.03.2013
Tản Viên
Thưa „quý vị“,
Với sự phổ biến rộng rãi bộ phim dài 3 tập „Việt Nam - Cuộc chiến không chiến tuyến“ trên kênh truyền hình ZDF-info, công chúng đã thấy một điều rất rõ, là đài ZDF đã có chủ ý chứ không còn là „vô tình“, khi họ chịu sự chi phối và giật dây của bộ máy truyền thông bất lương của hai đảng cộng sản đó là Tầu cộng và của ngụy quyền Việt gian cộng sản. Với mục đích có chủ ý thật rõ ràng, đó là tìm cách làm sai lệch, che chắn, cắt xén và mô tả một chiều về những sự kiện lịch sử liên quan tới cuộc chiến Việt Nam vừa qua. Và đó cũng chính là những hoạch định có định hướng nằm trong những âm mưu thủ đoạn của hai đảng cộng sản là Tầu-Hán và tập đoàn ngụy quyền Việt-gian cộng sản.
"Việt Nam - Thiên đường cộng sản XHCN hôm nay" |
Được giới thiệu là „phim tài liệu lịch sử“, do 2 đạo diễn Julia Driesen và Mathias von der Heide thực thi, dựa trên nền sách của sử gia…n Bernd Kreiner, nhưng bộ phim này cũng chỉ như đại đa số những bộ phim khác của giới truyền thông tây phương được „đưa tin“ về đề tài chiến tranh Việt Nam trước và sau khi hiệp định Paris được ký kết. Tất cả bối cảnh của phim chỉ tập trung đưa ra những hình ảnh và bình luận hoàn toàn thiên lệch một chiều về cuộc chiến Việt Nam. Các chi tiết „lịch sử“ của phim một mặt chỉ dành để nhấn mạnh và làm nổi bật hình ảnh: hoặc „chiến thắng“, hoặc là „nạn nhân“ của đám ngụy quân Việt gian cộng sản, và tất nhiên vẩn là bản nhạc cũ rích về màn xuyên tạc thổi phồng sự „tàn bạo phi nghĩa, thất bại thảm hại“ của quân đội Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa trên mọi mặt trận. Để mặt khác đồng thời hoàn toàn che giấu chối bỏ một cách khốn nạn sự thật bản chất của cuộc chiến Việt Nam, đó chính là: đảng cộng sản Việt Nam, một tập đoàn Việt gian phản trắc đầy tội ác, là kẻ nội thù số một và trước mắt của Dân tộc Việt Nam.
Hồ Chí Minh và đảng cộng sản của y đã tự nguyện làm thân khuyển mã cho Nga, Tầu, cướp quyền của Chính phủ Liên hiệp 1946, tẩy não nô lệ hóa nhân dân miền Bắc, phát động cuộc chiến tranh xâm lăng đẫm máu đầy tội ác để cưỡng chiếm một đất nước có chủ quyền là Việt Nam Cộng Hòa. Cả hai thế lực Nga xô và Tầu cộng đều ôm mộng đế quốc, một là chủ nghĩa đế quốc thực dân đỏ, một là chủ nghĩa đại Hán bành trướng, cả hai đều muốn dùng bàn tay của tên đại Việt gian Hồ Chí minh và đảng „cộng sản đông dương“ của y, nô lệ hóa toàn dân Việt Nam để khống chế và củng cố thế lực đế quốc, bành trướng thuộc địa xuống toàn bộ bán đảo Đông Dương („Indochina“), trước hết là Việt Nam, Lào và Campuchia. Cụm từ „Indochina“ do vậy đã được giọng bình luận của bộ phim khốn nạn này khẳng định: Chỉ là „sân sau“ của bọn Tầu-Hán mà thôi.
Bộ phim cũng câm lặng với nỗi đau vô cùng tột đằng sau tất cả những thiệt thòi mất mát của cả một dân tộc Việt Nam, bị cưỡng chiếm bởi đội quân xâm lược ngụy quyền Việt gian cộng sản, đặc biệt là của 17 triệu nhân miền Nam dưới chính thể đệ nhất Việt Nam Cộng Hòa với vị tổng thống đầu tiên là Ngô Đình Diệm. Người đã bị bọn tướng tá phản tặc tay sai VGCS, bị CIA mua chuộc, cùng lũ Việt gian cộng sản trá hình Phật giáo GHPGVNTN câu kết sát hại năm 1963. Cho đến tận ngày hôm nay nhân dân Việt Nam vẫn là nạn nhân của cuộc chiến xâm lăng này.
Phóng viên của đài truyền hình ZDF đã có mặt tại Việt Nam, đã đi khắp mọi miền đất nước để quay phim phỏng vấn. Nhưng cũng như đại đa số tất cả các nhóm làm phim hoặc phóng viên của các đài khác đã từng đến Việt Nam, (đặc biệt là từ ngày ngụy quyền Hồ Chí Minh xiết chặt ách thống trị hoàn toàn đối với nhân dân miền Bắc từ những năm 50, và cả nước Việt Nam từ 1975 đến nay), họ đều bị bọn an ninh ngụy quyền VGCS trá hình theo sát từng bước chân, nên chẳng bao giờ họ có thể tiếp cận được những nạn nhân thực sự của cuộc chiến để thăm hỏi và phỏng vấn. Trên thực tế, như những „bình luận“ thiên lệch và cách giàn cảnh của phim đã cho thấy: Những chế tác giả của nó đã không hề có ý định mô tả lịch sử cuộc chiến một cách trung thực, nói thẳng ra, đây là một bộ phim tẩy não, xuyên tạc, bất chấp lịch sử ở trình độ vụng về và trơ trẽn.
Chính vì vậy, sau khi các „dữ kiện lịch sử“ về cuộc chiến đã được cắt xén hoàn toàn để tuyên truyền theo kiểu „bách chiến bách thắng“ của „Cách mạng văn hóa“ bên Tầu, hòng chối bỏ tội ác của đảng cộng sản trước sự trừng phạt của nhân dân Việt Nam và lịch sử. Phóng viên của đài đã tập trung để phỏng vấn đám con cháu Việt gian đã từng được Hồ cho đi du học Đông Đức, thuộc dạng khuyển mã văn bút trí nô „có ăn học“, đã gần đất xa trời nhưng mặt mày vẫn xun xoe như đàn chó của lão Pavlov bị bỏ rơi ngày nào, tự hào khoe chuyện „một thời vàng son“, khoe được chụp hình lưu niệm cùng đại Việt gian Hồ Chí Minh khi hắn sang Đông-Đức gặp Erich Honecker.
Rồi ống kính „NQ 36“ lại dành thời gian đến thăm đám „đại gia“, con nòi cháu giống của lũ Mafia đỏ, là những kẻ cai ngục, thuộc giai cấp thống trị, đang „ăn nên làm ra“ trong thời buổi cướp ngày. Cũng Rolls Royce, cũng bể bơi, cũng biệt thự… xa hoa nhưng lố lăng thối nát, quê kệch và… bẩn. Một núi của vừa cướp được trong ngày, trong tay một lũ mà não trạng vẫn còn nguyên dạng của một đám lưu manh nông thôn, nhờ theo Hồ đấu tố địa chủ, „đấu tranh giai cấp“, để ăn cướp giành ngôi. Để giờ đây chính chúng đang bòn rút xương máu của nhân dân trong tư thế của kẻ cai ngục và giai cấp thống trị, tội ác đã có đảng VGCS phong „tước hiệu bảo chứng“ và… canh chừng: „đại gia, đại địa chủ tư bản… đỏ… thành thị“.
Tất nhiên để khoe giầu học làm sang nhưng không bỏ được thói thích uống máu, nên phim không quên giàn cảnh bắt rắn Hồ mang bành cắt tiết, pha rượu, thử tài cạn chén của phóng viên mũi lõ. Có biết đâu thằng hậu sinh phóng viên đài ZDF dòng „Stinkkäse“(3) kia, mặc dù chỉ là người làm công ăn lương, nhưng đi nhiều biết rộng, biết là phải nếm đủ mùi đời mới giữ được „job“, nhưng khi ra về cũng phải nôn khan mấy hôm, ốm mấy ngày vì cốc rượu rắn. Không phải vì tanh, mà vì tởm, vì phải cười đểu, vì coi khinh, không tởm sao được, vì chỉ có ở những thuộc quốc đen tối chư hầu của Tầu Hán này vẫn còn cả đám khuyển máy. Một lũ „có ăn có học“, nhưng đã hết biết mùi tanh để vui bữa tiệc máu dân hàng ngày, nên cũng hết còn …biết nhục …, cái nhục của những kẻ Việt gian theo Hồ bán nước phản dân tộc, vui vì… mất nước. Cho nên cả đàn văn bút trí nô Việt gian cộng sản chỉ là dòng khuyển máy Pavlov lai „Chi Hua Hua“…còn phải thua xa một con „Schäferhund“(4) dòng „Berger“ nhà nó là phải lắm. Vì trong phim, lũ Việt gian cộng sản đeo huy hiệu Mao nó mượn mồm „Tây Đức“, khẳng định rằng: Việt Nam và cả „Indochina“ chỉ là sân sau của bọn Tầu Hán mà thôi.
Tuyệt nhiên không có một lời nào dành cho những nạn nhân của Hồ, ít nhất là nửa nước Việt Nam từ năm 1946 và cả nước Việt Nam từ 30.04.1975 đến nay. Những người làm phim đã tỏ ra hoàn toàn không thèm để ý đến đề tài nóng bỏng này. Và ở đây, những người „Tây phương“ đã thể hiện rằng họ cũng có thể giả tảng trình diễn màn thong manh sành nghệ bậc thầy khi phải mục kích nỗi khỗ đau của cả một dân tộc khác.
Ví dụ cụ thể nhất phải kể đến chuyến thăm Việt Nam gần đây của một số dân biểu nghị sỹ châu Âu, cố ý thong manh giả tảng…hay là bị bọn an ninh ngụy quyền VGCS xỏ mũi? (Ở đây sẽ không đi vào chi tiết), khi họ cố tình gặp cho bằng được tên Đặng Phúc Tuệ tức Thích Quảng Độ, tên Việt gian cộng sản đội lốt Phật giáo trá hình „GHPGVNTN“ để cùng diễn màn kịch rối „đa đảng đa nguyên“ trá hình của đảng VGCS, lừa đảo nhân dân Việt Nam và thế giới. Đảng VGCS thì „cố đấm“ để rao bán cho bằng được con chim cò mồi Thích Quảng Độ, cố để làm sao cho hắn cũng có „đôi chút thành tích…cuội“, mát mặt tập đoàn Việt gian trọc, đại diện cho đảng VGCS đàn áp tôn giáo, nhưng đồng ca bài hát nước mắt cá sấu: „Đấu tranh cho nhân quyền, tự do tôn giáo“ để…lừa đảo ủy ban tuyển chọn giải Nobel hòa bình. Còn các dân biểu châu Âu, không những thích „cưỡi ngựa xem hoa“ mà cũng thích „ăn xôi“ nữa. Nên cuộc tiếp xúc gặp gỡ giữa họ với Quảng Độ bị an ninh VGCS giàn cảnh cho đám đầu trâu mặt ngựa „cản trở“ và „quấy rối thô bạo“. Các dân biểu châu Âu phải ra về trong nỗi „nhục nhã ê chề và tức giận“, vì chỉ muốn gặp một tên cò mồi của Việt gian cộng sản đội lốt Phật giáo trá hình GHPGVNTN vài phút, để „hỏi đôi nhời“ về „hiện tình tôn giáo tại Việt Nam“ mà cũng bị „nhiêu khê“ như thế.
"Der Denker und die Konsequenz des Denkens" |
Nên khi về lại châu Âu thì các nghị sỹ bị bọn công an VGCS trá hình Việt Tân và… đủ loại, giở trò „khích tướng“ là còn chờ gì nữa mà không „giới thiệu“ Quảng Độ ra làm ứng viên giải Nobel Hòa bình. Vậy là các nghị sỹ „tức khí“ chạy nhặng cả lên, để cái bẫy của an ninh VGCS đã được đảng VGCS giăng ra trên „mặt trận tôn giáo…“: Nhờ những cái mồm „thích ăn xôi“ của các dân biểu Châu Âu quảng cáo không công cho Việt gian Quảng Độ, và chầu mồm xem họ“ ăn xôi“ có vãi hạt nào chăng. Còn Quảng Độ có nhận được cái giải….rút nào hay không thì cứ chờ xem…, vì các dân biểu nói „chờ đấy…hẵng còn xơi“…
Cảnh trong phim cũng dành nhiều thời gian để trở lại những „chiến tích huy hoàng“ của ngụy quân Việt gian cộng sản tại địa đạo Củ Chi, và tung hô coi đó như những thành tích ngụy trang trá hình “tài tình“. Nhưng bộ phim lại lờ tịt đi một sự thật chết người, là quân số ngụy quân Việt gian cộng sản của Hồ, trá hình đủ mọi tầng lớp và danh xưng, từ „quân đội nhân dân“ cho đến „mặt trận giải phóng miền Nam“, „Liên minh“, Lực lượng“… mà đảng Việt gian cộng sản đã điều động để đào hầm khoét lỗ trong địa đạo Củ Chi còn thua xa quân số và sự ngụy trang trá hình đặc biệt nguy hiểm của đám cán binh Việt gian CS trên „mặt trận tôn giáo“, đặc biệt là đội quân giả danh đội lốt Phật giáo, ngụy trang trá hình danh xưng „GHPGVNTN“ như Thích Đôn Hậu, Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, Thích Minh Châu, Thích Nhất Hạnh…, Thích Chánh Lạc…,chỉ riêng tên họ của chúng đã chẳng thể đọc hết, lấy gì mà kể cho hết được sự nguy hiểm và tội ác của chúng.
Cho đến tận ngày hôm nay, toàn dân Việt Nam trong nước vẫn là tấm bia đỡ đạn, là món hàng thế nợ cho tài phiệt ngoại bang, bị cướp giết, bị khủng bố trấn áp, bị lừa dối, bị tuyên truyền, tẩy não toàn diện và triệt để, là nạn nhân của Hồ Chí Minh và đảng Việt gian cộng sản. Quyền được nói lên sự thật đã bị họng súng, nhà tù của đảng VGCS bóp chết. Nên chẳng thể lên tiếng mà nói cho được tình trạng khốn nạn này, thật chẳng khác gì thảm trạng của Bắc Tiều Tiên hoặc Tây Tạng. Chỉ có điểm khác nhau là. Ví dụ như trong tình trạng Bắc Triều Tiên, thì đảng cộng sản Bắc Triều phải dùng đám đảng viên cộng sản trực tiếp canh gác nhân dân, xem họ có „thực sự“ cào mặt để khóc vật vã cho hết nước mắt khi thằng đười ươi Kim Chính Nhật bị quỷ dữ lôi đi hay không.
Còn đàn khuyển máy hai chân của Pavlov, những „con người máy XHCN, đảng viên Việt gian cộng sản“ của Hồ ở Việt Nam, trong vai kẻ cai ngục, chúng cướp đi cơm bữa của người dân và thay vào đó bằng họng súng, khủng bố và nhà tù, tẩy não cưỡng bức nhân dân để làm sao, cả ngày lẫn đêm, từ đầu xỏ tới tay sai tại làng xã, từ phường xã, tổ dân phố, đến tận các thành viên trong gia đình, phải thường xoi mói, tố giác nghi kỵ và tự canh gác lẫn nhau. Biến xã hội Việt Nam thành một thứ ngục tù không tường vách, bằng „Trí, phú, địa, hào: đào tận gốc, trốc tận rễ…“, bằng „Giết! giết nữa! bàn tay không phút nghỉ…, cho ruộng đồng lúa tốt thuế mau xong, cùng rập bước chung lòng thờ Stalin bất diệt“.
Và tượng Hồ thay cảnh sát giao thông chống nạnh chỉ tay trên khắp các vườn hoa. Khi Hồ bị quỷ sứ lôi đi, hàng triệu lượt dân quê phải nghỉ ruộng đồng để „ai điếu“, cơm đùm cơm nắm lũ lượt đi ngắm một…cái xác…để giải khuây. Chân dung Hồ, đảng gọi „bàn thờ Tổ quốc“, là đồ thờ cúng bắt buộc, để thần Táo khai báo hộ khẩu, thay Hồ canh giữ bàn thờ gia tiên của trăm họ. Chưa đủ, một mình một "chùa" (5), một tòa, một chức „thượng tọa“(6), Hồ thay Phật biến đảng thành đạo, nô lệ hóa toàn dân. Cho nên sự nô lệ hóa toàn dân một cách „toàn diện và triệt để“ của Hồ và đảng cộng sản bằng họng súng, phải được che đậy bằng vô tận những xảo ngữ mê muội chết người như „chiến tranh nhân dân“, „giải phóng dân tộc“. Và đó cũng là một trong những lý do, tại sao những nạn nhân của chế độ ngụy quyền của Hồ chẳng thể có quyền ăn nói, huống gì lại có thể, khi có mặt lũ „an ninh nhân dân“, tức đám khuyển máy hai chân của Pavlov, lại được tự do nói lên sự thật trước ống kính một đài truyền thông ngoại quốc, mà không bị chúng cắn cổ cướp lời, xé ra từng mảnh.
Và nếu họ còn may mắn còn sống xót, thì đó là hơn ba triệu đồng bào Việt Nam tại hải ngoại đã phải dứt lòng bỏ nước ra đi, tìm đường tỵ nạn chế độ ngụy quyền Việt gian cộng sản. Nơi bến bờ tự do, họ mới có thể cất lên tiếng nói, vạch mặt và lên án chế độ tà ngụy kia, chỉ là một đám ô hợp vong bản, đã hiện nguyên hình là Việt gian phản quốc, lừa dân bán nước cùng những tội ác tầy trời đối với đất nước và dân tộc Việt Nam, chúng đã hành xử như một đội quân chiếm đóng trá hình cộng sản, là tay sai của của Nga xô và Tầu Hán Trung cộng.
Thưa „quý vị“,
cố tình làm ngơ hay già tảng, hay chóng quên, mà các vị („người ngoại quốc“) hay là lũ Việt gian CS phản quốc? lợi dụng truyền thông phim ảnh, để nói vượt đầu vượt mũi, qua mặt người Việt Nam chúng tôi? Các vị biết gì, hay là biết thừa mà không hề đả động tới những thủ đoạn cốt lõi, tẩy não và tuyên truyền nấp sau cụm từ xảo trá gọi là „chiến tranh nhân dân“ trên „mặt trận tuyên truyền“, do Stalin, Lenin, Mao và Hồ… đã từng phát động thực thi? Một nước „Đông Đức“ dù không còn, nhưng nó cũng chưa có biến mất, cho nên „Karl Marx“ hay „Göbels“ đối với “quý vị“ không thể là những tên tuổi xa lạ. Nhưng điều quan trọng ở đây là, những thủ đoạn tanh bẩn, tuyên truyền tẩy não một chiều được áp dụng đi đôi với bạo lực „cách mạng“ („quyền lực đến từ họng súng“) của những „đảng cộng sản“ trá hình như tại Tầu cộng, Bắc Hàn và Việt Nam. Và nhân dân của những nước này đang là những nạn nhân hàng ngày của nó. Đặc biệt là nhân dân Việt nam hay Bắc Hàn, Tây Tạng đang là nạn nhân trực tiếp của những tội ác do những đảng „cộng sản“ này gây ra. Ở Việt nam người dân gọi cái „đảng cộng sản Việt Nam“ là một „đảng Việt gian trá hình cộng sản“, chúng đang cai trị một đất nước cho Tầu Hán, mà vì thế cho nên, các vị ám chỉ ở trong phim chỉ là „sân sau“ của Tầu cộng đó.
Chúng tôi là những người Việt Nam ty nạn chế độ ngụy quyền Việt gian cộng sản tại nước ngoài, một phần của hơn 80 triệu đồng bào Việt Nam trong nước, cùng là nạn nhân của chế độ ngụy quyền Việt gian cộng sản, rất lấy làm tiếc cho một đài truyền hình cộng cộng như ZDF, qua bộ phim này, đã cố ý tiếp tay giúp Hồ và đạo quân đánh thuê xâm lược của y là đảng cộng sản Việt Nam, lớn tiếng đồng ca bài hát „Việt Nam – Hồ Chí Minh“. Như những cảnh „chủ đạo“ trong phim đã mô tả bài hát này rõ hơn bao giờ hết: Đó là khi những kẻ làm phim đã mời những người nói tiếng Đức, được giới thiệu là „sử gia“. Và đặc biệt ranh mãnh hơn khi đã dùng hình tên Hồ Chí Minh lồng trong hình nước Việt Nam đặt trên nền cờ mầu đỏ máu. Với ý tưởng là dùng sự bôi vẽ „bảng đồng bia đá“ hòng xóa tội ác Việt gian cho Hồ, quyết làm „bố già“ dân tộc, làm phông nền „chủ đạo“ cho những nhà sử… gian kia dựa hơi tha hồ nói những „nhận định lịch sử“…đã bị cắt xét của họ, mong bớt đi phần trơ trẽn.
Những „nhận định lịch sử“ từ mồm những sử gia…n kia, chỉ tập trung để ca ngợi Hồ và tay sai theo kiểu „mất mùa là tại thiên tai, được mùa là tại thiên tài đảng ta“. Họ nhiệt tình phê phán sự “thua hố, tàn ác của Mỹ ngụy và phương Tây“, là những luận điệu tẩy não cũ rích một chiều, mà người nghe có cảm tưởng là đang nghe lại từ mồm của Jane Fonda và Erich Wulf. Là những kẻ tung hô Việt gian Hồ Chí Minh vào thập niên 1960. Cái mặt Jane Fonda đã bị các cựu chiến binh Hoa Kỳ chọn làm nơi khạc nhổ chừng nào họ còn sống, khi họ qua đời, đồng đội và con cháu họ sẽ còn tiếp tục nhổ mãi vào mặt thị. Còn Erich Wulf là một tên cộng sản Đông Đức „cùng băng đảng“ với một tên cướp ngày, lông mày sâu róm, xuất thân lưu manh nông thôn, cũng là đảng viên Việt gian cộng sản trá hình Phật giáo Thích Trí Quang, tức Phạm Văn Bồng. Dù còn sống hay đã chết, ngày đền tội của chúng sẽ phải đến.
Cả loài người còn đang bàng hoàng vì căm giận trước những bản cáo trạng dài vô tận, những tội ác tầy trời chống nhân loại của „chủ nghĩa cộng sản“. Chúng ta có thể xem „Hồ sơ đen về chủ nghĩa cộng sản“, hoặc nghị quyết số 1481 của Đại hội đồng Quốc hội Âu Châu (PACE) ngày 25.01.2006 về việc tối cần thiết phải lên án và truy tố trên toàn thế giới những tội ác của các chế độ độc tài đảng cộng sản.
Trích dẫn từ „wikipedia“:
Ngày 25 tháng 1 năm 2006, tại thành phố Strasburg (Pháp), Hội đồng châu Âu (tiếng Anh: Parliamentary Assembly of the Council of Europe; tiếng Pháp: Assemblée parlementaire du Conseil de l'Europe), một cơ quan dân cử của 46 quốc gia châu Âu, đã có cuộc họp thường niên (bốn lần trong một năm) bỏ phiếu và thông qua (99 phiếu thuận, 42 phiếu chống) Nghị quyết 1481 (2006)[2] với các điều khoản lên án chủ nghĩa cộng sản và đồng nhất chủ nghĩa này với tội ác chống lại loài người.
Trích dẫn tóm tắt nghị quyết này:
Điều 2: "…Những chế độ độc tài toàn trị cộng sản gồm khối Liên xô, Đông Âu trong thế kỷ 20 và một số chế độ cộng sản hiện vẫn còn cầm quyền ở 4 nước trên thế giới, đều là những quốc gia vi phạm nhân quyền. Những vi phạm này tuy khác nhau về cấp độ văn hoá, về ranh giới quốc gia, cũng như tùy giai đoạn lịch sử nhưng đều có chung những cuộc giết người tập thể, ám sát, thủ tiêu cá nhân không cần xét xử, biến đất nước thành trại tập trung với sự đầy đọa con người về thể xác cũng như tinh thần: tra tấn, nô lệ hoá, lao động khổ sai, tù đầy, khủng bố tập thể, ngược đãi, ám sát vì lý do chủng tộc, tôn giáo, chính kiến; vi phạm quyền tự do tư tưởng, xúc phạm lương tâm con người, cấm tự do báo chí, tự do chính trị, độc tôn, độc quyền, độc đảng…"
Điều 3: "Nhân danh chủ trương đấu tranh giai cấp và nguyên tắc chuyên chính vô sản mà các tội ác được biện minh. Sự giải thích hai nguyên tắc này đã hợp thức hóa việc 'thủ tiêu' những người bị cho là có hại cho sự xây dựng một xã hội mới: xã hội chủ nghĩa, và do đó, bị xem là kẻ thù của các chế độ độc tài toàn trị cộng sản. Hầu hết nạn nhân chế độ cộng sản chính là công dân của nước đó…".
Điều 5: "Sự sụp đổ của những chế độ độc tài toàn trị cộng sản tại Trung và Đông Âu chưa được điều tra kỹ lưỡng bằng tổ chức quốc tế để thống kê hết tội ác của cộng sản, đặng đưa tác giả của những tội ác này ra xét xử trước cộng đồng nhân loại, như trường hợp những tội ác khủng khiếp do Đức Quốc xã gây ra trước đây…"
Điều 9: "Các chế độ độc tài toàn trị còn lại trên thế giới vẫn tiếp tục gây tội ác. Không thể dùng quan điểm quyền lợi quốc gia để biện hộ, lấp liếm sự lên án của cộng đồng nhân loại với các tội ác của các chế độ toàn trị này. Quốc hội chung châu Âu cực lực lên án tất cả mọi vi phạm quyền con người trong các chế độ cộng sản, coi nó như là tội ác chống nhân loại…"
Thêm vào dãy núi tội ác chồng chất kia: Của Lênin, của Stalin với những trại lưu đày diệt chủng Gulag…, của Mao với „cách mạng văn hóa“, Thiên An Môn 1989…, của Pol Pot…, của Khmer đỏ…, phải là tội ác „Trúc Lam Sơn không ghi hết tội, nước Đông Hải chẳng rửa sạch tanh hôi“ của Hồ Chí Minh và „đảng cộng sản Việt Nam“ của y. Giờ đây lại còn có ai đứng ra tiếp tay cho tập đoàn ngụy quyền Việt gian cộng sản để xóa nhòa, vô hại hóa những tội ác chống lại nhân dân Việt Nam, chống lại nhân loại của chúng chăng?
Một lần nữa, chúng tôi rất lấy làm tiếc, rằng với bộ phim „Việt Nam – Cuộc chiến không chiến tuyến“ này, những người chế tác ra nó đã không có đủ sự can đảm và liêm sỉ cần thiết để một lần soi sáng một cách toàn diện, dù là ngắn gọn: Sự thật về cuộc chiến Việt Nam vừa qua. Trong khi mà các vị có thừa đủ dữ liệu, phương tiện, tiền của và thời gian để nói và làm việc đó.
Điều đó cho thấy những người làm phim đã tự thể hiện họ là những người tự đánh mất đi sự sáng xuốt để có thể tự nhận mình là những người đang sống trên nền đất của một đất nước dân chủ tự do, vì họ đã quên đi giá trị của những con người được đứng dưới bầu trời tự do, được hít thở không khí tự do.
Đặc biệt kính cảm „quý vị“ đã lắng nghe ý kiến của chúng tôi.
Tản Viên
Chú thích:
- (1): Matanitu ko Viti – Fidschi: Tên một quốc đảo thanh bình và hiền hòa trong biển Nam Thái Bình Dương. Một danh từ mà những người Đức kỳ thị chủng tộc tại Đông Đức dành ám chỉ một giống dân mọi rợ, đặc biệt là để chỉ người Việt Nam tại Đông Đức.
- (2): „Bahnhof“: „Nhà ga„: „Nhà ga ở đâu?“ Cũng là câu dân Đông Đức chọc khoáy đám lao động Việt Nam của VGCS tại Đông Đức, tìm hỏi đường ra nhà ga. „Đường kính trắng“ là những thứ tràn ngập Đông Đức đã trở nên khan hiếm vì dân lao động Việt Nam tại Đông Đức hỏi mua cho bằng hết, để lấp chỗ trống khi đóng xe đạp Mifa… vô thùng gửi về Việt Nam.
- (3): „Stinkkäse“: „Fromage thối“ hoặc „Bơ thối“.
- (4): “Schäferhund” hoặc “Berger Blanc Suisse”, vốn là dòng chó sói lai, lông mầu trắng đặc biệt tinh khôn của những người chăn cừu Đức. Trong tiếng Việt quen gọi chung và tắt theo âm tiếng Pháp là “Chó Berger”.
- (5): “Chùa Hồ” trong khu du lịch “Đại Nam Văn Hiến Lạc cảnh” tại tỉnh Bình Dương, Việt Nam.
- (6): Tượng Hồ mạ vàng 24 Karat ăn trên ngồi trước, “thượng toạ” trước tôn tượng của Đức Phật Thích Ca…
- ZDF: „Zweite Deutsche Fernsehen – “Đài truyền hình Đức – Thứ hai“, để đối với một đài truyền hình khác có tên „Thứ Nhất“ – „Das Erste“.
- Khi thuận duyên, chúng tôi sẽ trở lại đề tài này để đi sâu vào những „điểm nhấn“ láo khoét chết người của bộ phim.